« Home « Kết quả tìm kiếm

Nghiên cứu bộ nhiễm sắc thể ở những cặp vợ chồng vô sinh nguyên phát


Tóm tắt Xem thử

- Nghiên cứu bộ nhiễm sắc thể ở những cặp vợ chồng vô sinh nguyên phát.
- Abstract: Lược sử nghiên cứu về nhiễm sắc thể người.
- Nghiên cứu cơ chế gây rối loạn nhiễm sắc thể người: rối loạn số lượng.
- rối loạn cấu trúc nhiễm sắc thể.
- Khái quát về tình hình nghiên cứu vô sinh và tình hình nghiên cứu nhiễm sắc thể ở những cặp vợ chồng vô sinh nguyên phát ở Việt Nam và trên thế giới.
- Trình bày và đánh giá các kết quả đạt được: Tuổi của các cặp vợ chồng vô sinh nguyên phát.
- Nghề nghiệp của các cặp vợ chồng vô sinh nguyên phát.
- Tần số rối loạn nhiễm sắc thể của các cặp vợ chồng vô sinh nguyên phát.
- Các biểu hiện rối loạn nhiễm sắc thể của các cặp vợ chồng vô sinh nguyên phát..
- Keywords: Nhiễm sắc thể.
- Bệnh vô sinh nguyên phát.
- Rối loạn nhiễm sắc thể.
- Khi một cặp vợ chồng không thể thực hiện được chức năng sinh sản thì họ phải đối mặt với nhiều áp lực của gia đình và xã hội.
- Chẩn đoán và điều trị ở những cặp vợ chồng hiếm muộn là vấn đề mang lại tính nhân văn rất lớn, mang lại hạnh phúc cho các cá nhân, gia đình và có ý nghĩa xã hội sâu sắc.
- Hiện nay, do ảnh hưởng của các nhân tố như môi trường sống, dịch bệnh… nên tỷ lệ các cặp vợ chồng vô sinh ngày càng tăng.
- Trong các cặp vợ chồng thì ở người vợ có thể do tử cung bị dị dạng, u xơ tử cung.
- Tuy nhiên một nguyên nhân quan trọng gây vô sinh cả ở người vợ và chồng đó là do rối loạn vật chất di truyền..
- Hiện nay trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu NST và những báo cáo về những cặp vợ chồng vô sinh nguyên phát mang rối loạn số lượng và cấu trúc NST như mất đoạn, lặp đoạn, chuyển đoạn, đảo đoạn….
- Ở Việt Nam trong những năm gần đây đã có nhiều phòng xét nghiệm di truyền tế bào như Viện nhi Trung ương, Viện Sản Trung ương, phòng Di truyền tế bào bệnh viện Từ Dũ, phòng di truyền tế bào của bộ môn Y sinh học – Di truyền trường Đại học Y Hà Nội làm xét nghiệm và phân tích NST nhằm mục đích góp phần chẩn đoán những bệnh nhân mắc các bệnh liên quan đến rối loạn vật chất di truyền và để có phương pháp điều trị thích hợp để đưa ra những lời khuyên di truyền cho các bệnh nhân này..
- Vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu bộ nhiễm sắc thể ở những cặp vợ chồng vô sinh nguyên phát.
- Lƣợc sử nghiên cứu về nhiễm sắc thể ngƣời.
- Từ năm 1970, với sự ra đời của các kỹ thuật nhuộm băng Q, băng G, băng R, băng C, băng T, N và nhuộm băng có độ phân giải cao NST, dùng BrdU (Bromodeoxyuridin) gắn vào ADN trên NST và nhuộm phân biệt chromatit chị em đã giúp các nhà nghiên cứu phát hiện các bất thường tinh tế đặc trưng trên từng NST ứng với các bệnh, tật, các hội chứng trong lâm sàng, phát hiện các rối loạn cấu trúc: mất đoạn, lặp đoạn, đảo đoạn và chyển đoạn….
- Các cơ chế gây rối loạn nhiễm sắc thể ở ngƣời 1.2.1.
- Rối loạn số lượng.
- Nhiễm sắc thể không phân ly trong giảm phân.
- Nhiễm sắc thể không phân ly trong quá trình phân cắt của hợp tử - Thất lạc nhiễm sắc thể.
- Rối loạn cấu trúc.
- Một số trường hợp có biểu hiện chậm phát triển trí tuệ và rối loạn cơ quan sinh dục, hay gặp trong số đó là NST X hình vòng.
- Chuyển đoạn NST được xác định là hay gặp nhất trong rối loạn cấu trúc của NST.
- Trong trường hợp này có 2 NST bị thay đổi cấu trúc, nhưng không mất đi hoặc tăng thêm vật liệu di truyền trong tế bào..
- Tình hình nghiên cứu vô sinh 1.3.1.
- Vô sinh là tình trạng một cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ có sức khỏe bình thường, mong muốn có con nhưng không thể có thai sau 12 tháng quan hệ tình dục mà không dùng biện pháp tránh thai nào..
- Vô sinh nguyên phát (vô sinh I) là vô sinh mà người vợ chưa từng có thai lần nào..
- Vô sinh thứ phát (vô sinh II) là vô sinh mà người vợ trước đây đã từng có thai, nhưng sau đó không thể có thai lại sau thời gian 1 năm..
- Vô sinh nam giới là vô sinh mà nguyên nhân hoàn toàn do người chồng, người vợ hoàn toàn bình thường..
- Vô sinh nữ giới là vô sinh mà nguyên nhân hoàn toàn do người vợ, người chồng hoàn toàn bình thường..
- Nguyên nhân vô sinh do người vợ.
- Do rối loạn rụng trứng.
- Các nguyên nhân do yếu tổ di truyền: Mức độ tế bào: do bất thường về cấu trúc và số lượng nhiễm sắc thể, hay gặp là hội chứng Turner.
- Mức độ phân tử: hội chứng dứt gãy nhiễm sắc thể X, hội chứng Kallmann, hội chứng suy hạ đồi….
- Nguyên nhân vô sinh do người chồng.
- Tình hình nghiên cứu nhiễm sắc thể của các cặp vợ chồng vô sinh nguyên phát 1.4.1.
- Đối tƣợng nghiên cứu.
- Từ tháng 6 năm 2010 đến tháng 6 năm 2012, tổng số 187 cặp vợ chồng (374 trường hợp) trong đó tuổi ở người vợ thấp nhất là 21 tuổi, cao nhất là 44 tuổi và tuổi của người chồng thấp nhất là 22 tuổi, cao nhất là 51 tuổi, được chẩn đoán lâm sàng là vô sinh nguyên phát từ các bệnh viện Phụ sản Trung ương, bệnh viện Phụ sản Hà Nội, Khoa sản bệnh viện Bạch Mai… đã gửi đến bộ môn Y sinh học – Di truyền, trường đại học Y Hà Nội yêu cầu xét nghiệm NST.
- Các cặp vợ chồng kết hôn ít nhất trong vòng 1 năm (≥1 năm) mà chưa có con lần nào..
- Các cặp vợ chồng mắc các bệnh mãn tính (viêm gan siêu vi trùng, bệnh đái tháo đường…) và các bệnh nhiễm trùng đường sinh dục: ở người vợ (viêm lộ tuyến cổ tử cung, viêm tắc vòi trứng, tử cung dị dạng.
- Các cặp vợ chồng thường xuyên tiếp xúc với các loại hóa chất độc hại, thuốc bảo vệ thực vật, các chất đồng vị phóng xạ….
- Các cặp vợ chồng có vợ hoặc chồng hoặc cả hai nghiện rượu, thuốc lá….
- Phƣơng pháp nghiên cứu 2.2.1.
- Phương pháp phân tích nhiễm sắc thể và lập karyotyp.
- Phương pháp phân tích nhiễm sắc thể và lập karyotype: theo tiêu chuẩn ISCN (2005)..
- Trong thời gian từ tháng 6/2010 đến tháng 6/2012, tổng số 187 cặp vợ chồng đã được khám lâm sàng tại bệnh viện Phụ sản Trung Ương, bệnh viện Phụ sản Hà Nội, Khoa sản bệnh viện Bạch Mai… đã gửi đến bộ môn Y sinh học – Di truyền, trường Đại học Y Hà Nội yêu cầu xét nghiệm NST, phân tích và lập karyotyp, chúng tôi thu được kết quả như sau:.
- Tuổi của các cặp vợ chồng vô sinh nguyên phát.
- Tổng số 187 cặp vợ chồng (374 trường hợp) bị vô sinh nguyên phát.
- Trong tổng số 187 cặp vợ chồng vô sinh nguyên phát đã được xét nghiệm, phân tích NST và lập karyotype bao gồm: cán bộ viên chức (CBVC), công nhân, làm ruộng, bộ đội, lao động tự do..
- Các cặp vợ chồng trong nghiên cứu của chúng tôi thuộc các nhóm nghề khác nhau nhưng nhìn chung đều không phải tiếp xúc với các chất đồng vị phóng xạ, các loại hóa chất độc hại, các thuốc bảo vệ thực vật.
- Những bệnh nhân này đã được chỉ định xét nghiệm di truyền để xác định xem họ có bị rối loạn ở mức độ NST hay không, mà những bất thường này có thể là nguyên nhân gây vô sinh ở các cặp vợ chồng..
- Tần số rối loạn NST ở các cặp vợ chồng vô sinh nguyên phát.
- Trong số 187 cặp vợ chồng (374 trường hợp) vô sinh nguyên phát được xét nghiệm NST, phân tích và lập karyotyp chúng tôi phát hiện có 41 cặp vợ chồng (vợ hoặc chồng) có biểu hiện rối loạn NST (chiếm tỷ lệ 10,96.
- 146 cặp vợ chồng (chiếm tỷ lệ 89,04%) có karyotyp bình.
- Tần số rối loạn NST giữa ngƣời vợ và ngƣời chồng ở các cặp vợ chồng vô sinh nguyên phát.
- Tổng số 41 cặp vợ chồng vô sinh nguyên phát có biểu hiện rối loạn NST (ở người vợ hoặc ở người chồng), trong đó chúng tôi phát hiện có 13 trường hợp người vợ (chiếm 3,48%) và 28 trường hợp người chồng (chiếm 7,48%)..
- Như vậy tần số rối loạn nhiễm sắc thể ở những cặp vợ chồng vô sinh nguyên phát thường gặp ở người chồng hơn người vợ..
- Các biểu hiện rối loạn NST ở các cặp vợ chồng vô sinh nguyên phát.
- Khi phân tích NST của 187 cặp vợ chồng (374 trường hợp) chúng tôi phát hiện trong số 41 trường hợp mang rối loạn NST thì:.
- 33 trường hợp (chiếm tỷ lệ cao 80,49%) có biểu hiện rối loạn NST giới tính gồm 25 trường hợp ở người chồng và 8 trường hợp ở người vợ..
- 8 trường hợp (chiếm tỷ lệ 19,51%) có biểu hiện rối loạn NST thường, bao gồm 3 trường hợp ở người chồng và 5 trường hợp ở người vợ..
- Như vậy rối loạn nhiễm sắc thể giới tính hay gặp hơn rối loạn nhiễm sắc thể thường..
- Các biểu hiện rối loạn nhiễm sắc thể ở người vợ trong các cặp vợ chồng vô sinh nguyên phát.
- Các biểu hiện rối loạn nhiễm sắc thể giới tính ở người vợ.
- 13 trường hợp rối loạn NST ở người vợ có 8 trường hợp rối loạn NST giới tính trong đó:.
- Hội chứng Turner có 4 trường hợp bao gồm: 1 trường hợp thể thuần 45, X.
- 2 trường hợp thể khảm hai dòng tế bào karyotyp là 45, X [50]/46, XX [50].
- 1 trường hợp thể khảm ba dòng tế bào có karyotyp là 45, X [50]/46, XX [30]/47, XXX [20]..
- 3 trường hợp là hội chứng 3 nhiễm sắc thể X đều ở thể khảm hai dòng tế bào karyotyp là 46, XX [60]/47, XXX và 1 trường hợp mang rối loạn cấu trúc kiểu chuyển đoạn tương hỗ giữa NST số 21 và NST X.
- Như vậy đa số các trường hợp rối loạn NST giới tính ở người vợ mà chúng tôi phát hiện được là rối loạn số lượng NST giới tính, tất cả đều là hội chứng Turner và hội chứng 3X, chỉ có 1 trường hợp mang rối loạn cấu trúc ở dạng chuyển đoạn.
- Các biểu hiện rối loạn NST thường ở người vợ.
- 5 trường hợp rối loạn NST thường ở người vợ đều là rối loạn về cấu trúc NST, bao gồm:.
- 2 trường hợp mang chuyển đoạn hòa hợp tâm giữa NST số 21 với NST số 21 và giữa NST số 13 với NST số 13 có karyotyp là 45, XX, t(21q.
- 1 trường hợp mất đoạn nhánh dài NST số 16, karyotyp là 46,XX,del(16)(q22) 1 trường hợp lặp đoạn nhánh dài NST số 1, karyotyp 46,XX,dup(1)(q12) 1 trường hợp đảo đoạn NST số 12 có karyotyp là 46,XX,inv(12)(p13.q13).
- Các biểu hiện rối loạn nhiễm sắc thể ở người chồng trong các cặp vợ chồng vô sinh nguyên phát.
- Các biểu hiện rối loạn nhiễm sắc thể giới tính ở người chồng.
- Chúng tôi phát hiện được 25 trường hợp người chồng mang rối loạn nhiễm sắc thể, trong đó:.
- 15 trường hợp hội chứng Klinefelter ở thể thuần 47, XXY.
- 5 trường hợp hội chứng Klinefelter thể khảm với hai dòng tế bào 46, XY [50]/47, XXY [50].
- 2 trường hợp thể khảm hai dòng tế bào karyotyp là 45, X [5]/46, XY [95].
- 1 trường hợp hội chứng Klinefelter karyotyp là 47, XXY [80]/48, XXYY [20].
- 2 trường hợp mất nhánh dài NST Y có karyotyp là 46, XY, del (Y)(q11.
- Như vậy, trong các rối loạn nhiễm sắc thể giới tính ở người chồng thì hay gặp nhất là hội chứng Klinefelter thể thuần và thể khảm..
- Các biểu hiện rối loạn nhiễm sắc thể thường ở người chồng.
- Chúng tôi phát hiện được 3 trường hợp ở người chồng mang rối loạn NST thường bao gồm:.
- 2 trường hợp chuyển đoạn hòa hợp tâm có karyotyp là: NST 45, XY, t(13q;15q).
- 1 trường hợp chuyển đoạn tương hỗ giữa NST số 1 và NST số 2 karyotyp là 46,XY, t(1;2)(p22;q21).
- Trong tổng số 187 cặp vợ chồng vô sinh nguyên phát chúng tôi phát hiện được 41 cặp vợ chồng (có vợ hoặc chồng) có biểu hiện rối loạn nhiễm sắc thể (chiếm tỷ lệ 10,96%) Kết luận 2.
- Trong số 41 trường hợp có rối loạn nhiễm sắc thể thì người chồng có 28 trường hợp.
- (68,29%) và người vợ có 13 trường hợp (0,71.
- Như vậy rối loạn nhiễm sắc thể ở các cặp vợ chồng vô sinh nguyên phát thường hay gặp ở người chồng hơn so với người vợ..
- Trong các rối loạn nhiễm sắc thể thì rối loạn nhiễm sắc thể giới tính có 33 trường hợp (người vợ hay gặp là hội chứng Turner, còn người chồng hay gặp là hội chứng Klinefelter) và 8 trường hợp rối loạn nhiễm sắc thể thường.
- Việc xét nghiệm NST đối với những cặp vợ chồng vô sinh là cần thiết để phát hiện ra các rối loạn NST, tìm nguyên nhân vô sinh và tư vấn di truyền.
- Những cặp vợ chồng vô sinh nguyên phát không có biểu hiện rối NST nên phải xét nghiệm ở mức độ phân tử để phát hiện mất đoạn nhỏ (Microdeletion) trên NST X hoặc Y.