« Home « Kết quả tìm kiếm

Nghiên cứu nuôi cá kèo (Pseudapocryptes elongatus) trong bể với các mật độ khác nhau theo công nghệ biofloc


Tóm tắt Xem thử

- NGHIÊN CỨU NUÔI CÁ KÈO (Pseudapocryptes elongatus) TRONG BỂ VỚI CÁC MẬT ĐỘ KHÁC NHAU THEO CÔNG NGHỆ BIOFLOC.
- Nghiên cứu nuôi cá kèo trong bể với mật độ khác nhau nhằm xác định mật độ nuôi thích hợp cho sự sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá kèo được nuôi theo công nghệ biofloc.
- Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 4 nghiệm thức mật độ khác nhau và 400 con/m 3 ) và mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần.
- Sau 56 ngày nuôi, chiều dài và khối lượng của cá nuôi ở mật độ 100 và 200 con/m 3 lớn hơn, hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR) nhỏ hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với với mật độ nuôi 300 và 400 con/m 3 (p<0,05)..
- Tỷ lệ sống của cá ở nghiệm thức mật độ 200 con/m 3 đạt cao nhất (91,0.
- khác biệt không có ý nghĩa so với các nghiệm thức còn lại (p>0,05).
- Sinh khối cá thu được ở mật độ 200 con/m 3 là 2,6 kg/m 3 , khác biệt không ý nghĩa so với mật độ 300 và 400 con/m 3 , nhưng cao hơn có ý nghĩa so với mật độ 100 con/m 3 (1,3 kg/m 3.
- Tóm lại, nuôi cá kèo theo công nghệ biofloc với mật độ 200 con/m 3 trong bể là phù hợp nhất..
- Nghiên cứu nuôi cá kèo (Pseudapocryptes elongatus) trong bể với các mật độ khác nhau theo công nghệ biofloc.
- Cá kèo (Pseudapocryptes elongatus, Cuvier 1816) là một trong những loài thủy sản có giá trị kinh tế được nuôi phổ biến ở các tỉnh ven biển Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) như Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng.
- Theo Trần Ngọc Hải và Nguyễn Tấn Nhơn (2009), trung bình mật độ nuôi cá kèo ở ĐBSCL là 81 con/m 2 .
- Trong những năm gần đây, việc nuôi thương phẩm cá kèo được quan tâm nghiên cứu với các hình thức khác nhau như: Thực nghiệm nuôi cá kèo trong ao đất ở tỉnh Bến Tre với mật độ 10 và 20 con/m 2 (Dương Nhựt Long và ctv., 2005).
- nuôi cá kèo trong bể tuần hoàn với các mật độ 50, 150 và 250 con/m 2 (Nguyễn Thị Ngọc Anh và ctv., 2010a), và nuôi luân canh trong ao tôm sú với các mật độ là 40, 70 và 120 con/m 2 (Nguyễn Thị Ngọc Anh và ctv, 2010b).
- Trong những năm gần đây, cá kèo chủ yếu được nuôi luân canh trong các ao nuôi tôm với mật độ dao động từ 50 – 150 con/m 2 và năng suất đạt trung bình 14,4 tấn/ha/vụ (Trần Thị Bé, 2016).
- Các nghiên cứu trên cho thấy, mật độ nuôi có xu hướng ngày càng cao nên năng suất cá nuôi cũng tăng lên.
- Tuy nhiên, cùng với việc gia tăng mật độ nuôi, đồng nghĩa với khả năng gây ô nhiễm môi trường nuôi ngày càng cao, do đó việc nghiên cứu ảnh hưởng các tác nhân sinh học đến kỹ thuật nuôi cá kèo là xu hướng tích cực góp phần ổn định môi trường và hạn chế dịch bệnh trong ao nuôi.
- Tuy nhiên, đến nay chưa có nghiên cứu nào ứng dụng công nghệ biofloc trong nuôi cá kèo thương phẩm, do đó nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định mật độ nuôi cá kèo thích hợp theo công nghệ biofloc, góp phần xây dựng và phát triển mô hình nuôi cá kèo ở ĐBSCL..
- Thí nghiệm gồm 4 nghiệm thức nuôi với các mật.
- Lượng thức ăn của cá hằng ngày được xác định dựa theo hướng dẫn của nhà sản xuất, với khẩu phần ăn dao động từ 3 – 10% khối lượng thân/ngày.
- lượng và đo chiều dài của từng cá thể để xác định tốc độ tăng trưởng của cá.
- Tốc độ tăng trưởng của cá được xác định theo công thức sau:.
- Tốc độ tăng trưởng theo ngày về khối lượng:.
- Tốc độ tăng trưởng tương đối về khối lượng:.
- Xác định hệ số thức ăn (HSTA): HSTA của cá bằng tổng lượng thức ăn cho cá ăn/tăng trọng của cá..
- Tỷ lệ sống của cá được xác định vào thời điểm kết thúc thí nghiệm bằng cách đếm toàn bộ số lượng cá còn lại trong bể ương..
- Tỷ lệ sống (TLS.
- Sinh khối của cá (kg/m 3.
- Sự sai biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức ở mức (p<0,05) được xác định theo phương pháp phân tích ANOVA, bằng phép thử Duncan thông qua phần mềm SPSS 16.0..
- Trung bình nhiệt độ và pH ở nghiệm thức trong thời gian thí nghiệm được thể hiện ở Bảng 1, nhiệt độ buổi sáng và buổi chiều dao động trong khoảng o C.
- (2005) thì cá kèo nuôi thương phẩm trong ao đất ở nhiệt độ o C và pH cá vẫn sinh trưởng tốt.
- (2010a), nuôi cá kèo thâm canh trong bể tuần hoàn, trung bình nhiệt độ dao động trong trong thời gian nuôi dao động từ o C thì cá vẫn phát triển tốt và đạt tỷ lệ sống tương đối cao .
- Nhìn chung, nhiệt độ và pH ở các nghiệm thức trong thời gian nuôi nằm trong khoảng thích hợp cho sự phát triển của cá nuôi..
- Bảng 1: Nhiệt độ và pH trung bình của các nghiệm thức Mật độ nuôi.
- 3.1.2 Hàm lượng nitrite, TAN và độ kiềm Trung bình hàm lượng TAN ở các nghiệm thức trong thời gian thí nghiệm dao động mg/L (Bảng 2).
- Hàm lượng TAN trong các nghiệm thức có khuynh hướng tăng theo mật độ nuôi, cao nhất ở nghiệm thức mật độ 400 con/m mg/L), thấp nhất ở nghiệm thức 100 con/m mg/L).
- Đối với hàm lượng nitrite biến động từ mg/L, và thấp nhất vẫn ở nghiệm thức mật độ 100 con/m mg/L).
- Mật độ nuôi (con/m 3) TAN (mg/L) Nitrite (mg/L) Độ kiềm (mg CaCO 3 /L).
- Độ kiềm ở các nghiệm thức trong thời gian nuôi dao động 123 – 134 mg CaCO 3 /L.
- Sự biến động của FV ở các nghiệm thức trong giai đoạn nuôi được thể hiện ở Hình 1.
- Nhìn chung, FV ở các nghiệm thức có khuynh hướng tăng theo thời gian nuôi, ở ngày thứ 7 FV ở các nghiệm thức dao động từ 1,1 – 8,1 mL/L, đến ngày thứ 21 FV.
- Nuôi cá rô theo công nghệ biofloc với tỷ C:N=15:1 thì FV dao động trong thời gian nuôi từ 18 – 45 mL/L, cá đạt tốc độ tăng trưởng tốt và đạt tỷ lệ sống lên đến 80% (Trần Ngọc Hải và ctv., 2016).
- Hình 1: Thể tích biofloc ở các nghiệm thức trong thời gian nuôi 3.2 Tốc độ tăng trưởng của cá kèo sau 56.
- 3.2.1 Tăng trưởng về chiều dài.
- Hình 2 và Bảng 3 thể hiện tốc độ tăng trưởng về chiều dài của cá trong thời gian nuôi, sau 28 ngày ương chiều dài của cá ở các nghiệm thức dao động từ cm và giữa các nghiệm thức không.
- chiều dài của cá ở mật độ 200 con/m3, (14,35 cm) và 300 con/m 3 (13,66 cm), nhưng khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) so với cá ở mật độ 400 con/m2 (13,10 cm).
- Đến 56 ngày nuôi, chiều dài của cá ở các nghiệm thức dao động từ cm, tương ứng với DLG từ cm/ngày (SGRL.
- ngày), giữa các nghiệm thức khác 0.
- Bảng 3: Trung bình tốc độ tăng trưởng về chiều dài của cá sau 56 ngày nuôi.
- Mật độ (con/m 3) L đ (cm/con) L C (cm/con) DLG (cm/ngày) SGR L (%/ngày).
- Hình 2: Chiều dài của cá trong 56 ngày nuôi.
- Tương tự như tăng trưởng về chiều dài, khối lượng cá ở các nghiệm có sự khác biệt từ ngày thứ 42 và khối lượng cá tăng trưởng cao nhất vẫn ở nghiệm thức mật độ nuôi 100 và 200 con/m 3 (Hình 3).
- Sau 56 ngày nuôi, khối lượng cá ở các nghiệm thức dao động từ g, tương ứng với DWG là g/ngày (SGR .
- %/ngày), giữa các nghiệm thức khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
- Trong đó tốc độ tăng trưởng về khối lượng của cá ở nghiệm thức 100 và 200 con/m 3 , tương ứng với khối lượng cá là g/ngày;.
- Tốc độ tăng trưởng của cá trong nghiên cứu này tốt hơn.
- so với các nghiên cứu nuôi cá kèo trong bể trước đây, theo Nguyễn Thị Ngọc Anh và ctv (2010a), nuôi cá kèo trong bể với các mật độ khác nhau (50, 150 và 250 con/m2) tốc độ tăng trưởng của cá trong giai đoạn 60 ngày dao động từ ngày..
- (2010) khi thực hiện mô hình nuôi kết hợp cua biển và cá kèo trong ao Artemia vào mùa mưa với mật độ 15 và 30 con/m 2 khối lượng ban đầu là 0,05g, cá đạt trọng lượng bình quân 14,1-15,5 g/con sau 5 tháng nuôi, và tác giả kết luận rằng sự tăng trưởng của cá kèo giảm theo sự tăng mật độ nuôi, đây có thể do nhiều nguyên nhân trong đó chất lượng nước ao nuôi có thể là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá nuôi..
- Hình 3: Khối lượng cá ở các nghiệm thức trong 56 ngày nuôi.
- giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) Bảng 5: Trung bình tốc độ tăng trưởng về khối lượng của cá sau 56 ngày nuôi.
- Mật độ (con/m 3) Wđ (g/con) Wc (g/con) DWG (g/ngày) SGR (%/ngày).
- giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) 3.3 Tỷ lệ sống, sinh khối và hệ số thức ăn.
- 3.3.1 Tỷ lệ sống và sinh khối.
- Tỷ lệ sống trung bình của cá sau 56 ngày nuôi ở các nghiệm thức dao động từ Hình 4), giữa các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
- Sinh khối cá ở các nghiệm thức đạt từ 1,3 – 2,8 kg/m 3 và có sự khác biệt có nghĩa ý nghĩa thống kê (p<0,05).
- Trong đó, sinh khối đạt cao nhất ở nghiệm thức mật độ 300 con/m 3 (2,8 kg/m 3.
- khác biệt không có ý nghĩa so với mật độ nuôi 200 và 400 con/m 3 , sinh khối cá nuôi ở 3 mật độ này đều cao hơn và khác biệt có ý nghĩa so với mật độ 100 con/m 3 (1,3 kg/m 3.
- Theo kết quả quả khảo sát của Trần Ngọc Hải và Nguyễn Tấn Nhơn (2009), nuôi cá kèo trong ao đất ở các tỉnh ĐBSCL (Cà Mau, Bạc Liêu và Sóc Trăng) bằng con giống tự nhiên, với mật độ 80,9±44 con/m 2 , sau 4,23±0,43 tháng thì tỷ lệ sống của cá đạt trung bình và năng suất đạt 0,49 kg/m 3 .
- Tương tự, nuôi cá kèo trong ao với mật độ trung bình 95,7±26,5 con/m 2 , sau 4 – 5 tháng nuôi thì tỷ lệ sống của cá là 31,4±4,7% và năng suất đạt 0,64 kg/m 2 (Trương Hoàng Minh và Nguyễn Thanh Phương, 2011)..
- (2010a) nuôi cá kèo trong bể với 3 mật độ con/m 2 tỷ lệ sống dao động và tương ứng với năng suất đạt từ 0,67-2,03 kg/m 2.
- Hình 4: Tỷ lệ sống và sinh khối của cá sau 56 ngày nuôi.
- Hệ số thức ăn trung bình ở các nghiệm thức mật độ nuôi khác nhau, dao động và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) (Hình 5).
- Hệ số thức ăn ở mật độ nuôi 100 và 200 con/m 3 (1,50 và 1,51 theo thứ tự) thấp hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với mật độ 300 con/m 3 (2,04) và 400 con/m 3 (3,14).
- Nguyên nhân, có thể do tốc độ tăng trưởng của cá nuôi ở mật độ 100 và 200 con/m 3 nhanh hơn cá nuôi ở nghiệm thức mật độ 300 và 400 con/m 3 (Bảng 5).
- Bên cạnh đó, tỷ lệ sống của cá nuôi.
- ở mật độ 100 và 200 con/m 3 cũng lớn hơn so với nghiệm thức mật độ 300 và 400 con/m 3 (Hình 4)..
- (2010a), nghiên cứu nuôi cá kèo thâm canh trong bể với mật độ khác nhau, hệ số thức ăn dao động từ 1,3 – 1,5.
- Khi nuôi cá kèo trong bể với các mức lipid khác nhau (1,5;.
- 10,5 và 13,5), hệ số thức ăn của cá dao động từ Trần Thị Bé và ctv., 2014).
- Đối với nuôi cá kèo trong ao đất, hệ số thức ăn trung bình Trần Ngọc Hải và Nguyễn Tấn Nhơn, 2019).
- Hình 5: Hệ số thức ăn của cá nuôi ở các mật độ khác nhau Các giá trị có ký tự giống nhau (a, b, c) thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
- Mật độ nuôi (con/m 3.
- Tỷ lệ sống.
- Tỷ lệ sống.
- Hệ số thức ăn.
- Các yếu tố môi trường nước trong suốt quá trình thí nghiệm nằm trong khoảng thích hợp cho sự tăng trưởng của cá kèo nuôi trong hệ thống biofloc..
- Chiều dài và khối lượng của cá nuôi ở mật độ 100 và 200 con/m 3 cao hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với với mật độ nuôi 300 và 400 con/m 3.
- Tỷ lệ sống và sinh khối cá nuôi ở mật độ 200 con/m 3 cho kết quả tốt nhất (91,0% và 2,6 kg/m 3.
- Hệ số thức ăn của cá nuôi ở mật độ 100 và 200 con/m 3 (1,50 và 1,51) thấp hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với với mật độ nuôi 300 và 400 con/m 3 (2,04 và 3,14)..
- Cần nghiên cứu thêm nuôi cá kèo với các tỷ lệ C:N khác nhau nhằm tối ưu tỷ lệ C:N, cải thiện tốc độ tăng trưởng, năng suất và giảm hệ số thức ăn..
- Có thể triển khai ứng dụng nuôi cá kèo theo công nghệ ở quy mô lớn hơn và đánh giá hiệu quả của mô hình..
- Thực nghiệm nuôi thương phẩm cá kèo (Pseudapocryptes lanceolatus Bloch, 1801) ở các huyện Ba Tri, Bình Đại và Thạnh Phú Tỉnh Bến Tre.
- Nghiên cứu nuôi cá kèo.
- (Pseudapocryptes lanceolantus Bloch, 1801 ) thâm canh trong bể với các mật độ khác nhau.
- Ảnh hưởng của mật độ đến năng suất và hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi cá kèo (Pseudapocryptes lanceolantus Bloch, 1801 ) luân canh trong ao nuôi tôm sú.
- Sự tích tụ N, P trong ao nuôi cua – cá kèo kết hợp ở mùa mưa theo các mô hình khác nhau trên ruộng muối.
- Nghiên cứu nuôi tôm thẻ chân trắng theo quy trình biofloc với mật độ và độ mặn khác nhau.
- Phân tích kỹ thuật và hiệu quả kinh tế ương cá giống và nuôi thương phẩm cá kèo (Pseudapocryptes elongatus) ở Đồng bằng sông Cửu Long.
- Ứng dụng công nghệ biofloc ương tôm sú (Penaeus monodon) giống với các mật độ khác nhau.
- Ảnh hưởng của tỷ lệ C:N khác nhau lên tăng truởng, tỷ lệ sống và chất lượng của cá rô phi (Oreochromis niloticus) nuôi theo công nghệ biofloc.
- Ảnh hưởng của chất béo lên sinh trưởng và thành phần hóa học của cá kèo (Pseudapocryptes lanceolatus cuvier, 1816).
- Nghiên cứu nhu cầu dinh dưỡng và xây dựng công thức thức ăn nuôi cá kèo (Pseudapocryptes elongatus, Cuvier 1816)