« Home « Kết quả tìm kiếm

Nghiên cứu ương ấu trùng tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) theo công nghệ biofioc với các nguồn carbon bổ sung khác nhau


Tóm tắt Xem thử

- DOI:10.22144/ctu.jsi.2020.035 NGHIÊN CỨU ƯƠNG ẤU TRÙNG TÔM CHÂN TRẮNG (Litopenaeus vannamei) THEO CÔNG NGHỆ BIOFIOC VỚI CÁC NGUỒN CARBON BỔ SUNG KHÁC NHAU Châu Tài Tảo, Trần Nguyễn Duy Khoa, Nguyễn Văn Hòa và Trần Ngọc Hải.
- Nghiên cứu nhằm xác định nguồn carbon thích hợp cho tăng trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng và hậu ấu trùng tôm chân trắng ương theo công nghệ biofloc.
- Nghiên cứu gồm một thí nghiệm với 5 nghiệm thức: (i) không bổ sung nguồn carbon (đối chứng), (ii) bổ sung nguồn carbon từ bột mì, (iii) bổ sung nguồn carbon từ cám lau mịn.
- (iv) bổ sung nguồn carbon kết hợp giữa cám lau mịn và bột mì với tỉ lệ 1:1, và (v) bổ sung nguồn carbon từ đường cát.
- Mỗi nghiệm thức được lặp lại ba lần.
- Kết quả thí nghiệm cho thấy chiều dài hậu ấu trùng 12 ngày tuổi (PL12) ở nghiệm thức bổ sung đường cát mm) là cao nhất và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức đối chứng nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với các nghiệm thức còn lại.
- Tỷ lệ sống (52±5,1%) và năng suất (78±8 con/lít) của PL12 ở nghiệm thức bổ sung đường cát là cao nhất và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại.
- Vậy đường cát được xem là nguồn carbon bổ sung thích hợp nhất trong ương ấu trùng tôm chân trắng theo công nghệ biofloc..
- Nghiên cứu ương ấu trùng tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) theo công nghệ biofioc với các nguồn carbon bổ sung khác nhau.
- trong đó, việc ứng dụng công nghệ biofloc (BFT) trong ương ấu trùng tôm chân trắng để tạo ra con giống chất lượng cao phục vụ cho nghề nuôi là giải pháp triển vọng..
- Gần đây đã có một số nghiên cứu ương ấu trùng tôm sú theo công nghệ biofloc với các nguồn carbon khác nhau, thời điểm bổ sung carbon khác nhau và chu kỳ bổ sung nguồn carbon khác nhau (Châu Tài Tảo và Trần Ngọc Hải, 2016.
- Tuy nhiên các nghiên cứu về ương ấu trùng tôm chân trắng theo công nghệ biofloc chưa được thực hiện.
- 2.2 Nguồn ấu trùng tôm.
- Ấu trùng tôm chân trắng (giai đoạn naupllius) được mua từ trại tôm giống Châu Phi ở tỉnh Ninh Thuận.
- Phương thức bổ sung nguồn carbon theo tỷ lệ C/N = 20 (1 ngày/lần) được tính theo tỷ lệ C:N trong thức ăn nhân tạo để bổ sung, bước đầu dựa trên cơ sở kết quả các nghiên cứu trên ương ấu trùng tôm sú theo công nghệ Bioflocs (Châu Tài Tảo và Trần Ngọc Hải, 2016).
- Lượng carbon cần bổ sung vào bể để tạo biofloc được tính dựa theo công thức của Avnimelech (2015)..
- Thí nghiệm ương ấu trùng tôm chân trắng trong hệ thống biofloc với các nguồn carbon khác nhau được bố trí trong trại thực nghiệm gồm 5 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần và bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên.
- Nghiệm thức 1: không bổ sung nguồn carbon (đối chứng, ĐC).
- Nghiệm thức 2: bổ sung nguồn carbon từ bột mì Nghiệm thức 3: bổ sung nguồn carbon từ cám lau mịn.
- Nghiệm thức 4: bổ sung nguồn carbon kết hợp từ cám lau mịn và bột mì tỉ lệ 1:1 (tính theo khối lượng)..
- Nghiệm thức 5: bổ sung nguồn carbon từ đường cát (đường Biên Hòa).
- được bổ sung vào bể với mật độ tế bào/mL..
- Giai đoạn ấu trùng mysis, tôm được cho ăn thức ăn nhân tạo (50% Lansy ZM + 50% Frippak-2).
- Mật độ vi khuẩn tổng được xác định bằng phương pháp pha loãng và đếm trên đĩa thạch Nutrient Agar có bổ sung 1,5% NaCl (NA) (Huys, 2002).
- Phân tích thống kê (One-way ANOVA với phép thử DUNCAN) để tìm ra sự khác biệt giữa các trung bình nghiệm thức bằng phần mềm SPSS 20.0 ở mức ý nghĩa p<0,05..
- Nhiệt độ: sự biến động của nhiệt độ trong bể ương tôm chân trắng ở các nghiệm thức không.
- Thái Bá Hồ và Ngô Trọng ̣Lư (2003) cho rằng nhiệt độ thích hợp cho sinh ̣trưởng của ấu trùng tôm chân trắng từ 28-32 o C.
- Như vậy, nhiệt độ trong quá trình thí nghiệm nằm trong khoảng thích hợp cho sự phát triển của ấu trùng và hậu ấu trùng tôm chân trắng..
- pH: trong thời gian thí nghiệm pH luôn ổn định, pH trung bình của các nghiệm thức biến động rất nhỏ, từ 7,95 đến 7,99.
- (2015) cho rằng pH dao động từ 7,5 – 8,5 nằm trong khoảng thích hợp cho sự phát triển của ấu trùng và hậu ấu trùng tôm chân trắng..
- Bảng 1: Các yếu tố môi trường của các nghiệm thức Chỉ tiêu.
- Nghiệm thức bổ sung.
- Độ kiềm: độ kiềm của các nghiệm thức dao động từ mgCaCO 3 /L, giữa các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05)..
- (2015), độ kiềm thích hợp cho ương ấu trùng tôm chân trắng từ 140 - 160 mgCaCO 3 /L..
- Hàm lượng TAN nhỏ nhất ở nghiệm thức bổ sung đường cát khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại.
- Hàm lượng TAN cao nhất ở nghiệm thức đối chứng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức bổ sung cám lau kết hợp với bột mì, tuy nhiên khác biệt có ý nghĩa thống kê so với các nghiệm thức còn lại..
- Phạm Văn Tình (2004) cho rằng hàm lượng NO 2 - thích hợp cho sự phát triển của ấu trùng tôm là <1 mg/L..
- Như vậy, tất cả các yếu tố môi trường bể ương ổn định và nằm trong khoảng thích hợp cho ấu trùng tôm chân trắng phát triển tốt.
- Các chỉ tiêu TAN và NO 2 - ở các nghiệm thức bổ sung nguồn carbon đều thấp hơn nghiệm thức đối chứng, riêng ở nghiệm thức bổ sung đường cát có hàm lượng TAN và NO 2.
- thấp nhất, từ đó cho thấy khi bổ sung nguồn carbon kích thích nhóm vi khuẩn dị dưỡng phát triển làm cho hàm lượng TAN và NO 2 - ở mức thấp hơn so với nghiệm thức đối chứng..
- Mật độ vi khuẩn tổng của các nghiệm thức được thể hiện ở Bảng 2.
- Mật độ vi khuẩn tổng giữa các nghiệm thức có sự khác biệt trong thời gian thí nghiệm.
- Sau 7 ngày ương, mật độ vi khuẩn tổng ở nghiệm thức bổ sung đường cát khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với nghiệm thức bổ sung cám lau mịn+bột mì, nhưng khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại, mật độ vi khuẩn tổng thấp nhất ở nghiệm thức bổ sung cám lau mịn khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức bổ sung đường cát nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với các nghiệm thức còn lại.
- Sau 14 ngày ương, nghiệm thức bổ sung đường cát có mật độ vi khuẩn tổng cao nhất CFU/mL) và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại, các nghiệm thức đối chứng, bổ sung bột mì, bổ sung cám lau mịn và nghiệm thức bổ sung bột mì + cám lau mịn khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05)..
- Đến ngày ương thứ 21 mật độ vi khuẩn tổng ở nghiệm thức bổ sung cám lau mịn khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với nghiệm thức bổ sung bộ mì + cám lau mịn, nhưng khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại, các nghiệm thức đối chứng, bổ sung bột mì, bổ sung bột mì+cám lau mịn và nghiệm thức bổ sung đường cát khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05)..
- Bảng 2: Mật độ vi khuẩn tổng trung bình trong nước (10 3 CFU/mL), và trong tôm (10 3 CFU/g) của các nghiệm thức.
- Ngày thu Nghiệm thức bổ sung.
- Khi kết thúc thí nghiệm tổng vi khuẩn trong tôm ở nghiệm thức bổ sung bột mì là cao nhất CFU/g) và nghiệm thức bổ sung đường cát là thấp nhất CFU/g), nhưng tất cả các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05)..
- (2018), ương ấu trùng tôm sú theo công nghệ biofloc bằng cách bổ sung rỉ đường ở các giai đoạn khác nhau mật độ vi khuẩn tổng bằng CFU/mL trong nước và CFU/g trong tôm nhưng ấu trùng và hậu ấu trùng tôm sú vẫn phát triển tốt..
- Mật độ vi khuẩn Vibrio tổng trong nước trung bình trong thời gian nuôi ở các nghiệm thức biến động từ 1,63*10 3 đến CFU/mL.
- Sau 7 ngày ương, nghiệm thức bổ sung cám lau mịn+bột mì có mật độ Vibrio tổng cao nhất 3,85*10 3 CFU/mL và thấp nhất là ở nghiệm thức bổ sung bột mì, nhưng giữa các nghiệm thức khác biệt không có.
- ý nghĩa thống kê (p>0,05).
- Sau 14 ngày ương, mật độ Vibrio tổng ở nghiệm thức bổ sung cám lau mịn thấp nhất khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với nghiệm thức bổ sung cám lau mịn+bột mì nhưng khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại.
- mật độ Vibrio tổng cao nhất CFU/mL ở nghiệm thức bổ sung bột mì khác không có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức đối chứng, nhưng khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại.
- Sau 21 ngày ương, mật độ Vibrio tổng ở nghiệm thức bổ sung đường cát cao nhất CFU/mL), khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại, mật độ vi khuẩn vibrio thấp nhất ở nghiệm thức bổ sung bột mì +cám lau mịn khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với nghiệm thức bổ sung bột mì và nghiệm thức đối chứng, nhưng khác biệt có ý nghĩa thống kê so với 2 nghiệm thức còn lại..
- Bảng 3: Mật độ tổng vi khuẩn Vibrio trung bình trong nước (10 3 CFU/mL) và trong tôm (10 3 CFU/g) của các nghiệm thức.
- Khi kết thúc thí nghiệm, nghiệm thức đối chứng có mật độ Vibrio tổng trong tôm thấp nhất CFU/g) và nghiệm thức bổ sung đường cát có mật độ vi khuẩn Vibrio tổng cao nhất CFU/g) nhưng tất cả các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
- (2018), ương ấu trùng tôm sú theo công nghệ biofloc bằng cách bổ sung rỉ đường ở các giai đoạn khác nhau thì mật độ vi khuẩn Vibrio tổng bằng 30,83x10 3 CFU/mL trong nước và 30,9x10 3 CFU/g.
- trong tôm nhưng chưa thấy ảnh hưởng đến ấu trùng và hậu ấu trùng tôm..
- Ở giai đoạn PL4, thể tích floc giữa các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
- Ở giai đoạn PL8, thể tích floc ở nghiệm thức bổ sung đường cát cao nhất và khác biệt có ý.
- nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức đối chứng và nghiệm thức bổ sung bột mì, tuy nhiên khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với 2 nghiệm thức còn lại, thể tích biofloc thấp nhất ở nghiệm thức đối chứng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với nghiệm thức bổ sung bộ mì nhưng khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại.
- Đến giai đoạn PL12, thể tích floc cao nhất ở nghiệm thức bổ sung đường cát và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức đối chứng nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) với các nghiệm thức còn lại, thể tích biofloc thấp nhất ở nghiệm thức đối chứng khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức bổ sung bột mì và nghiệm thức bổ sung cám lau mịn, nhưng khác biệt có ý nghĩa thống kê so với 2 nghiệm thức còn lại.
- Theo Châu Tài Tảo và ctv (2016) ương ấu trùng tôm sú theo công nghệ biofloc với các nguồn carbon khác nhau thể tích biofloc <4 mL/L tôm phát triển tốt..
- Chiều rộng hạt biofloc thu được ở giai đoạn PL4 ở nghiệm thức bột mì+cám lau mịn nhỏ nhất và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại, chiều rộng hạt biofloc lớn nhất ở nghiệm thức bổ sung đường cát khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức bổ sung bột mì+cám lau min nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với các nghiệm thức còn lại.
- Đến giai đoạn PL8 chiều rộng hạt biofloc giữa các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
- Đến giai đoạn PL12 chiều rộng hạt biofloc ở nghiệm thức đối chứng thấp nhất và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức bổ sung cám lau mịn, nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với các nghiệm thức còn lại, chiều rộng hạt biofloc lớn nhất ở nghiệm thức bổ sung cám lau mịn khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với nghiệm thức bổ sung bột mì, nghiệm thức bổ sung bột mì+cám lau mịn và nghiệm thức bổ sung đường cát..
- Bảng 4: Thể tích biofloc và kích thước hạt biofloc của các nghiệm thức.
- Chỉ tiêu Nghiệm thức bổ sung.
- Ở giai đoạn PL4, chiều dài hạt biofloc nhỏ nhất ở nghiệm thức bổ sung bột mì+cám lau mịn khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với nghiệm thức bổ sung cám lau mịn, nhưng khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại, chiều dài biofloc lớn nhất ở nghiệm thức bổ sung bột mì khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức bổ sung bột mì+cám lau min, nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với các nghiệm thức còn lại.
- Ở giai đoạn PL8 chiều dài hạt biofloc giữa các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
- Đến giai đoạn PL12 chiều dài hạt biofloc ở nghiệm thức cám lau mịn lớn nhất và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức đối chứng, nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với các nghiệm thức còn lại, chiều dài hạt biofloc nhỏ nhất ở nghiệm thức đối chứng khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với.
- nghiệm thức bổ sung cám lau mịn, nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với các nghiệm thức còn lại..
- 3.4 Tăng trưởng của ấu trùng tôm.
- Sự tăng trưởng của ấu trùng tôm chân trắng trong những giai đoạn đầu tương đối đồng đều, chiều dài của tôm giai đoạn zoea 3 và mysis 3 giữa các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05)..
- Chiều dài PL4 ở nghiệm thức bổ sung đường cát lớn nhất và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức đối chứng và nghiệm thức bổ sung bột mì, nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với nghiệm thức bổ sung cám lau mịn và nghiệm thức bột mì+cám lau mịn.
- Chiều dài PL4 ở nghiệm thức đối chứng thấp nhất khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức bổ sung bột mì, nghiệm thức bổ sung cám lau mịn và nghiệm.
- thức bổ sung bột mì+cám lau mịn.
- Chiều dài của tôm ở giai đoạn PL8 ở nghiệm thức đối chứng nhỏ nhất và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại, chiều dài PL8 lớn nhất ở nghiệm thức bổ sung đường cát khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức đối chứng, nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với các nghiệm thức còn lại.
- Chiều dài PL12 ở nghiệm thức bổ sung đường cát lớn nhất khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức đối chứng và khác biệt.
- không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với các nghiệm thức còn lại, chiều dài PL12 thấp nhất ở nghiệm thức đối chứng khác biệt không có ý nghĩa thông kê so với nghiệm thức bổ sung bột mì, nghiệm thức bổ sung cám lau mịn và nghiệm thức bổ sung bột mì+cám lau mịn.
- Bảng 5: Chiều dài (mm) ấu trùng và hậu ấu trùng tôm chân trắng của các nghiệm thức.
- Giai đoạn Nghiệm thức bổ sung.
- Tỷ lệ sống và năng suất ở PL12 cao nhất ở nghiệm thức bổ sung đường cát (Bảng 6) và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại, thấp nhất ở nghiệm thức đối chứng..
- đây là môi trường tốt nhất cho ấu trùng và hậu ấu trùng tôm chân trắng phát triển dẫn đến tỷ lệ sống và năng suất cao hơn các nghiệm thức.
- Việc bổ sung đường cát ở nghiên cứu này cho kết quả về tỉ lệ sống của PL12 tôm chân trắng cao hơn nghiên cứu trên..
- Nghiệm thức bổ sung Đối chứng Bột mì Cám lau.
- Bột mì+cám lau mịn.
- Sau khi gây sốc giảm 50% độ mặn và 100 ppm formol cho thấy tỷ lệ sống của tôm ở tất cả các nghiệm thức đều đạt 100%.
- Việc đánh giá chất lượng bằng cách gây sốc formol và độ mặn cho thấy việc ương tôm trong hệ thống biofloc có và không bổ sung các nguồn carbon khác nhau đều cho con giống chất lượng tốt..
- Trong thời gian ương ấu trùng tôm chân trắng các yếu tố môi trường đều nằm trong phạm vi thích.
- hợp cho tôm phát triển, trong đó nghiệm thức bổ sung đường cát hàm lượng TAN và NO 2 - thấp nhất..
- Các chỉ tiêu tổng vi khuẩn, tổng Vibrio và biofloc của các nghiệm thức trong suốt quá trình ương nằm trong phạm vi thích hợp cho ấu trùng và hậu ấu trùng tôm chân trắng phát triển tốt..
- Tăng trưởng của tôm PL12 ở nghiệm thức bổ sung đường cát lớn nhất khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức đối chứng, nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với các nghiệm thức còn lại..
- Tỷ lệ sống và năng suất của PL12 ở nghiệm thức bổ sung đường cát là cao nhất và khác biệt có ý.
- nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại..
- Bổ sung đường cát trong ương ấu trùng tôm chân trắng theo công nghệ biofloc để thực hiện các nghiên cứu tiếp theo (tỷ lệ C/N, giai đoạn bổ sung…) nhằm hoàn thiện qui trình ương ấu trùng tôm chân trắng bằng công nghệ biofloc..
- Nghiên cứu ương ấu trùng tôm sú (Penaeus monodon) theo công nghệ biofloc với các nguồn carbon khác.
- Nghiên cứu ương ấu trùng tôm sú (Penaeus monodon) bằng công nghệ biofloc từ nguồn carbohydrate rỉ đường bổ sung ở các giai đoạn khác nhau.
- Ảnh hưởng của bổ sung chất khoáng lên tăng trưởng, tỷ lệ sống, chất lượng của ấu trùng và hậu ấu trùng tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei)