« Home « Kết quả tìm kiếm

Nghiên cứu ương ấu trùng tôm sú (Penaeus monodon) bằng công nghệ biofloc ở các mật độ khác nhau


Tóm tắt Xem thử

- NGHIÊN CỨU ƯƠNG ẤU TRÙNG TÔM SÚ (Penaeus monodon) BẰNG CÔNG NGHỆ BIOFLOC Ở CÁC MẬT ĐỘ KHÁC NHAU.
- Ấu trùng tôm sú, biofloc, mật độ, rỉ đường Keywords:.
- Nghiên cứu nhằm xác định mật độ ương thích hợp lên sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng và hậu ấu trùng tôm sú bằng công nghệ biofloc.
- Thí nghiệm gồm 4 nghiệm thức được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên, 3 lần lặp lại, với các mật độ ương khác nhau: 150.
- Kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố môi trường, mật độ vi khuẩn và các chỉ tiêu biofloc ở nghiệm thức mật độ 150 và 200 con/L nằm trong khoảng thích hợp cho ấu trùng và hậu ấu trùng tôm phát triển.
- Chiều dài Postlarvae mm), và tỷ lệ sống ở nghiệm thức mật độ 150 con/L lớn nhất khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với mật độ 200 con/L, nhưng khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với mật độ 250 và 300 con/L.
- Ở nghiệm thức mật độ 200 con/L năng suất của tôm PL con/m 3 ) lớn hơn khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với mật độ 150 và 250 con/L, nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với mật độ 300 con/L.
- Qua đó cho thấy ương ấu trùng tôm sú theo công nghệ biofloc ở mật độ 200 con/L được xem là tốt nhất..
- Nghiên cứu ương ấu trùng tôm sú (Penaeus monodon) bằng công nghệ biofloc ở các mật độ khác nhau.
- Các nghiên cứu trước đây đều ương ấu trùng tôm sú mật độ 150 con/L (Châu Tài Tảo, 2013;.
- Vì thế, mục tiêu của nghiên cứu nhằm xác định được mật độ ương ấu trùng tôm sú thích hợp theo công nghệ biofloc đạt tăng trưởng, tỷ lệ sống, năng suất và chất lượng của hậu ấu trùng tôm sú tốt nhất, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất trong qui trình ương ấu trùng tôm sú và cung cấp giống chất lượng tốt cho nuôi thương phẩm..
- Thí nghiệm ương ấu trùng tôm sú trong hệ thống biofloc với các mật độ khác nhau gồm 4 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần và bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên.
- Nghiệm thức 1: Mật độ ương ấu trùng 150 con/L.
- Nghiệm thức 2: Mật độ ương ấu trùng 200 con/L.
- Nghiệm thức 3: Mật độ ương ấu trùng 250 con/L.
- Nghiệm thức 4: Mật độ ương ấu trùng 300 con/L.
- với mật độ tế bào/ml kết hợp thức ăn nhân tạo (50%.
- Mật độ vi khuẩn tổng được xác định bằng phương pháp pha loãng và đếm trên đĩa thạch Nutrient agar có bổ sung 1,5% NaCl (NA)..
- Tương tự, mật độ Vibrio tổng số được xác định bằng phương pháp pha loãng và đếm trên đĩa thạch TCBS (Thiosulfat Citrate Bile Salt Surcose), (Huys, 2003)..
- So sánh sự khác biệt giữa các nghiệm thức áp dụng phương pháp ANOVA (SPSS 13.0) với phép thử DUNCAN ở mức ý nghĩa p<0,05..
- Trong thời gian thí nghiệm nhiệt độ trung bình buổi sáng và chiều ở các nghiệm thức chênh lệch không nhiều, nhiệt độ vào buổi sáng từ 28,2 đến 28,8 o C và buổi chiều 29,5 đến 30,0 o C (Bảng 1)..
- Như vậy nhiệt độ thích hợp cho sự phát triển của ấu trùng tôm sú..
- Trung bình pH ở các nghiệm thức biến động rất nhỏ, buổi sáng từ 7,56 đến 7,64 và buổi chiều từ 7,59 đến 7,66.
- (2017) cho rằng pH thích hợp cho ương ấu trùng tôm sú từ 7,5 - 8,5.
- Như vậy pH nằm trong giới hạn phát triển của ấu trùng tôm sú..
- Hàm lượng TAN ở các nghiệm thức dao động từ 0,7 đến 1,58 mg/L (Bảng 1).
- Hàm lượng TAN trung bình thấp nhất ở nghiệm thức mật độ 150 con/L (0,730,5 mg/L) và tăng dần theo mật độ ương, ở nghiệm thức mật độ 250 và 300 con/L hàm lượng TAN ở cuối thí nghiệm >.
- Nguyên nhân là do ở mật độ ấu trùng ương cao, lượng thức ăn cung cấp nhiều kết hợp với điều kiện không thay nước nên hàm lượng TAN cao, từ đó có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ sống và năng suất của PL-15.
- Theo Boyd (1998) và Chanratchakool (2003), hàm lượng TAN thích hợp cho ấu trùng tôm sú là nhỏ hơn 2 mg/L.
- hàm lượng TAN ở nghiệm thức mật độ 150 và 200 con/L thích hợp cho ấu trùng tôm phát triển..
- Hàm lượng NO 2 - trung bình ở các nghiệm thức biến động từ 0,08 đến 0,31 mg/L (Bảng 1), cao nhất ở nghiệm thức mật độ 300 con/L là 0,31 mg/L và thấp nhất ở nghiệm thức mật độ 150 con/L là 0,08 mg/L.
- Vì vậy, hàm lượng NO 2 - ở các nghiệm thức trong suốt quá trình ương nằm trong phạm vi thích hợp để tôm phát triển tốt..
- Độ kiềm trung bình ở các nghiệm thức dao động từ 107,1 đến 113,5 mgCaCO 3 /L (Bảng 1).
- Độ kiềm trung bình thấp nhất ở mật độ 300 con/L (107,1 mgCaCO 3 /L), cao nhất ở mật độ 150 con/L (113,5 mgCaCO 3 /L).
- Điều này cho thấy độ kiềm ở các nghiệm thức của thí nghiệm nằm trong khoảng thích hợp cho ấu trùng và hậu ấu trùng tôm phát triển tốt..
- Chỉ tiêu Nghiệm thức mật độ.
- Sau 7 ngày ương mật độ vi khuẩn tổng dao động từ 1,4x10 4 đến 2,4x10 4 CFU/mL, sau 15 ngày ương dao động từ 1,2x10 4 đến 2,4x10 4 CFU/mL và khi kết thúc thí nghiệm mật độ vi khuẩn tổng dao động từ 1,0x10 4 đến 1,6x10 4 (Bảng 2).
- Mật độ vi khuẩn tổng qua 3 lần phân tích giữa các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p<0,05)..
- Tổng vi khuẩn trong tôm ở nghiệm thức mật độ 300 con/L cao nhất (13,2x10 4 CFU/g) và thấp nhất.
- ở nghiệm thức mật độ 200 con/L (10,2x10 4 CFU/g)..
- Giữa các nghiệm thức, mật độ vi khuẩn tổng trong tôm khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05)..
- (2018), ương ấu trùng tôm sú theo công nghệ biofloc bằng cách bổ sung rỉ đường ở các giai đoạn khác nhau thì mật độ vi khuẩn tổng bằng 12,50x10 4 CFU/mL trong nước và 23,88x10 4 CFU/g trong tôm nhưng ấu trùng và hậu ấu trùng tôm sú vẫn phát triển tốt.
- Như vậy, mật độ vi khuẩn tổng trong nước và trong tôm của cả 4 nghiệm thức đều nằm trong khoảng thích hợp cho tôm phát triển..
- Bảng 2: Mật độ vi khuẩn tổng trung bình giữa các nghiệm thức (10 4 CFU/mL trong nước và 10 4 CFU/g trong tôm).
- Mật độ vi khuẩn tổng Nghiệm thức mật độ.
- Sau 7 ngày, vi khuẩn Vibrio xuất hiện với mật độ cao nhất là 4,7x10 3 CFU/mL ở nghiệm thức 200 con/L và nhỏ nhất là 2,8x10 3 CFU/mL ở nghiệm thức 250 con/L, giữa các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
- Ngày thứ 15, trung bình mật độ Vibrio ở các nghiệm thức dao động từ 1,1x10 3 đến 4,3x10 3 CFU/mL.
- Mật độ.
- Vibrio lớn nhất ở nghiệm thức mật độ 250 con/L khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức mật độ 150 con/L và khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với nghiệm thức mật độ 200 con/L và nghiệm thức mật độ 300 con/L..
- Khi kết thúc thí nghiệm mật độ Vibrio dao động từ 1,9x10 3 CFU/mL đến 16,6x10 3 CFU/mL, thấp nhất ở nghiệm thức mật độ 150 con/L và nghiệm thức.
- mật độ 200 con/L lần lượt là 6,4x10 3 CFU/mL và 1,9x10 3 CFU/mL khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức mật độ 250 con/L và nghiệm thức mật độ 300 con/L (Bảng 3)..
- Kết quả vi khuẩn Vibrio trong tôm khi kết thúc thí nghiệm dao động từ 2,7x10 3 đến 25x10 3 CFU/g, thấp nhất ở nghiệm thức mật độ 150 con/L và nghiệm thức mật độ 200 con/L lần lượt là 3,5x10 3.
- CFU/g và 2,7x10 3 CFU/g khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức mật độ 250 con/L và 300 con/L.
- (2018), ương ấu trùng tôm sú theo công nghệ biofloc bằng cách bổ sung rỉ đường ở các giai đoạn khác nhau thì mật độ vi khuẩn Vibrio bằng 30,83x10 3 CFU/mL trong nước và 30,9x10 3 CFU/g trong tôm nhưng chưa thấy ảnh hưởng đến ấu trùng và hậu ấu trùng tôm..
- Bảng 3: Mật độ vi khuẩn Vibrio trung bình giữa các nghiệm thức (10 3 CFU/mL trong nước và 10 3 CFU/g trong tôm).
- Mật độ Vibrio Nghiệm thức mật độ.
- Bảng 4: Thành phần động- thực vật trong hạt biofloc của các nghiệm thức.
- Ngành Nghiệm thức mật độ.
- Thể tích biofloc: Kết quả thí nghiệm cho thấy, sau 23 ngày ương, thể tích biofloc ở các nghiệm thức dao động từ 1,53 đến 4,33 ml/L.
- Thể tích biofloc ở giai đoạn PL-5 cao nhất ở nghiệm thức mật độ 300 con/L là 1,77 ml/L khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức mật độ 250 con/L, nhưng khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức mật độ 150 con/L và nghiệm thức mật độ 200 con/L.
- Đến giai đoạn PL-10, thể tích biofloc cao nhất ở nghiệm thức 300 con/L là 2,67ml/L khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức.
- mật độ 150 con/L và nghiệm thức mật độ 200 con/L nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với nghiệm thức mật độ 250 con/L.
- Khi kết thúc thí nghiệm thể tích biofloc ở các nghiệm thức dao động từ 1,53 ml/L đến 4,33 ml/L (Bảng 5).
- Thể tích biofloc trung bình cao nhất ở nghiệm thức mật độ 300 con/L khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại, nguyên nhân là do mật độ ương càng cao, lượng thức ăn nhiều và lượng rỉ đường bổ sung lớn nên thể tích biofloc cao hơn các nghiệm thức còn lại..
- Giai đoạn Nghiệm thức mật độ.
- 5 và PL-10 ở các nghiệm thức lần lượt dao động trong khoảng mm và mm khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
- giai đoạn PL-15 chiều dài trung bình hạt biofloc dao động trong khoảng mm, ở nghiệm thức mật độ 300 con/L có chiều dài hạt biofloc lớn nhất và khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với các nghiệm thức còn lại (Bảng 6).
- Chiều rộng của hạt biofloc ở giai đoạn PL-5 của các nghiệm thức dao động trong khoảng mm và khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
- Đến giai đoạn PL-10 chiều rộng của các nghiệm thức dao động trong khoảng mm (Bảng 6).
- Trong đó nghiệm thức mật độ 300 con/L khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức mật độ 150 con/L và khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với các nghiệm thức còn lại.
- Giai đoạn PL-15 chiều rộng hạt biofloc ở các nghiệm thức dao động trong khoảng mm, cao nhất ở nghiệm thức mật độ 300 con/L, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại.
- Chiều rộng hạt biofloc thấp nhất ở nghiệm thức mật độ 150 con/L, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức mật độ 250 con/L và nghiệm thức mật độ 300 con/L, nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với nghiệm thức mật độ 200 con/L.
- Nhìn chung, biến động kích thước hạt biofloc ở các nghiệm thức tương đối cao.
- 3.4 Chiều dài ấu trùng và hậu ấu trùng tôm sú Trong ương ấu trùng tôm sú chỉ tiêu chiều dài đánh giá sự tăng trưởng của tôm ở từng nghiệm thức và được trình bày ở Bảng 7.
- kê tăng trưởng về chiều dài của tôm cho thấy, ở giai đoạn Mysis-1 chiều dài dao động từ mm, giai đoạn PL-1 chiều dài dao động từ mm, giai đoạn PL-5 chiều dài tôm dao động từ mm và giữa các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
- Trong đó tôm có chiều dài lớn nhất ở nghiệm thức mật độ 150 con/L, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức mật độ 250 con/L và nghiệm thức mật độ 300 con/L, nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với nghiệm thức mật độ 200 con/L.
- Đến giai đoạn PL-15 chiều dài tôm ở nghiệm thức mật độ 150 con/L lớn nhất khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với nghiệm thức mật độ 200 con/L, nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với các nghiệm thức còn lại.
- (2006), chiều dài của tôm PL-15 ương theo quy trình thay nước, mật độ 150 con/L là 11,1 mm.
- (2018), ương ấu trùng tôm sú bổ sung rỉ đường ở các giai đoạn khác nhau, mật độ 150 con/L thì chiều dài của PL-15 dao động từ mm.
- Bảng 7: Chiều dài (mm) của ấu trùng và hậu ấu trùng tôm sú.
- nghiệm thức.
- Qua kết quả xử lý thống kê cho thấy tỉ lệ sống của PL-15 ở nghiệm thức mật độ 150 con/L cao nhất (61,2%) khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với nghiệm thức mật độ 200 con/L (56,3.
- nhưng 2 nghiệm thức này khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức mật độ 250 con/L (39,4%) và nghiệm thức mật độ 300 con/L (38,3%) (Bảng 8).
- Theo Trần Ngọc Hải và Lê Quốc Việt (2018), ương ấu trùng tôm sú với các mô hình khác nhau, mật độ 150 con/L, thì tỷ lệ sống của PL- 10 dao động từ 36,9 đến 51,9%.
- nghiệm thức mật độ 150 và 200 con/L, tỷ lệ sống của PL-15 cao hơn các nghiên cứu trên..
- Năng suất trung bình của tôm sú PL-15 ở nghiệm thức mật độ 200 con/L (112.515 con/m 3 ) và 300 con/L (114.742 con/m 3 ) khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) và cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức mật độ 150 con/L (91.777 con/L) và 250 con/L (98.462 con/m 3 ) (Bảng 8).
- Trần Ngọc Hải và Lê Quốc Việt (2018) ương ấu trùng tôm sú với các mô hình khác nhau, mật độ 150 con/L, thì năng suất của PL- 10 dao động từ con/L.
- Châu Tài Tảo và Trần Ngọc Hải (2016) ương ấu trùng tôm sú bổ sung các nguồn cacbon khác nhau, mật độ 150 con/L, năng suất PL- 15 dao động từ con/L.
- Kết quả nghiên cứu cho thấy, nghiệm thức mật độ 150 con/L tôm PL-15 có chiều dài và tỷ lệ sống lớn nhất nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với mật độ 200 con/L, tuy nhiên năng suất của PL-15 ở mật độ 200 con/L cao hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với mật độ 150 con/L.
- Vì vậy, có thể thấy rằng ương ấu trùng tôm sú theo công nghệ biofloc ở mật độ 200 con/L là tốt nhất..
- Sau khi sốc tôm PL-15 bằng formol 100 ppm và giảm 50% độ mặn, tất cả các nghiệm thức đều có tỷ lệ tôm sống đạt 100%, kết quả này phù hợp với tiêu chuẩn về chất lượng tôm PL-15.
- Từ đó cho thấy ương ấu trùng tôm sú theo công nghệ biofloc thì PL-15 có chất lượng tốt và sạch bệnh..
- Các yếu tố môi trường nước ương tôm, mật độ vi khuẩn và chỉ tiêu biofloc của nghiệm thức mật độ 150 và 200 con/L trong suốt quá trình ương nằm trong khoảng thích hợp cho tôm sinh trưởng và phát triển tốt..
- và năng suất con/L) của tôm sú ở giai đoạn PL-15 ở nghiệm thức mật độ 200 con/L là tốt nhất..
- Chất lượng tôm PL-15 ở tất cả các nghiệm thức đạt chất lượng tốt và sạch bệnh đốm trắng, bệnh EMS/AHPND, bệnh hoại tử cơ quan tạo máu và cơ quan lập biểu mô (IHHNV)..
- Có thể ứng dụng ương ấu trùng tôm sú theo công nghệ biofloc ở mật độ 200 con/L vào trong thực tế sản xuất giống..
- Nghiên cứu ương ấu trùng tôm sú (Penaeus monodon) theo công nghệ biofloc với các nguồn cacbon khác nhau.
- Ảnh hưởng của độ kiềm lên tăng trưởng, tỷ lệ sống và chất lượng của ấu trùng và hậu ấu trùng tôm sú (Penaeus monodon).
- Ảnh hưởng của chế độ thay nước lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng tôm sú (Penaeus monodon).
- Nghiên cứu ương ấu trùng tôm sú (Penaeus monodon) bằng công nghệ biofloc từ nguồn carbohydrate rỉ đường bổ sung ở các giai đoạn khác nhau.
- Thực nghiệm ương ấu trùng tôm sú (Penaeus monodon) với các mô hình khác nhau