« Home « Kết quả tìm kiếm

Những kiến nghị và giải pháp hoàn thiện hình phạt bổ sung trong Bộ luật hình sự năm 1999 và nâng cao hiệu quả của chế định này trong thực tiễn áp dụng


Tóm tắt Xem thử

- Toản / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học Những kiến nghị và giải pháp hoàn thiện hình phạt bổ sung trong Bộ luật hình sự năm 1999 và nâng cao hiệu quả.
- Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 về các hình phạt bổ sung, thực tiễn xét xử và kinh nghiệm lập pháp các nước, tác giả đưa ra những kiến nghị và giải pháp hoàn thiện hình phạt bổ sung trong BLHS năm 1999 và nâng cao hiệu quả của chế định này trong thực tiễn áp dụng..
- Trước khi đưa ra những kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định về các hình phạt bổ sung (HPBS) cụ thể trong BLHS năm 1999, chúng tôi xin đề xuất một số kiến nghị chung liên quan đến hầu hết các HPBS trong BLHS này, đó là: Thứ nhất, Điều 26 BLHS đưa ra định nghĩa pháp lý chung về hình phạt, đó là một sự tiến bộ về mặt lập pháp, nhưng định nghĩa này chưa có tính khái quát cao và chưa thật sự chính xác ở hai ý, thứ nhất là nhà làm luật sử dụng động từ "nhằm" là không chính xác làm nhầm tưởng rằng mục đích của hình phạt chỉ là tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội.
- Theo chúng tôi, thuật ngữ này có lẽ chỉ đúng với hình phạt chính (HPC), chứ không đúng với tính chất của HPBS, vì vậy định nghĩa về hình phạt nói chung nên sử dụng thuật ngữ "biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc" là phù hợp hơn.
- Ngoài ra, theo chúng tôi, tội phạm và hình phạt không nên chỉ quy định trong BLHS mà cần được quy định ở các văn bản pháp luật chuyên ngành khác.
- Với quan điểm như vậy, ngoài việc cần sửa đổi Điều 2, Điều 8 và một số điều luật khác của Phần chung BLHS, chúng tôi đề nghị sửa đổi định nghĩa pháp lý về hình phạt trong Điều 26 BLHS như sau: Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước, được thể hiện ở việc tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội.
- Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và các văn bản pháp luật chuyên ngành khác và do Tòa án quyết định..
- Thứ hai, về mục đích của hình phạt, Điều 27 BLHS nên sửa đổi theo hướng khẳng định dứt khoát là hình phạt không có mục đích trừng trị, trả thù, hạ thấp danh dự của người phạm tội.
- Điều 27 BLHS cần được sửa lại như sau: Hình phạt có mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới.
- Hình phạt còn có mục đích giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
- Hình phạt không có mục đích gây đau đớn về thể xác hoặc hạ thấp nhân phẩm của con người..
- Thứ ba, về giảm thời hạn hoặc miễn HPBS, Khoản 1 Điều 57 BLHS chỉ quy định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt "đối với người bị kết án cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn mà chưa chấp hành hình phạt mà lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và nếu người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa", chứ không có quy định cụ thể về việc miễn chấp hành toàn bộ HPBS trong trường hợp HPBS chưa được chấp hành.
- Còn khoản 5 Điều 57 BLHS cũng chỉ có quy định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại đối với hình phạt cấm cư trú và quản chế trong trường hợp người bị kết án đã chấp hành được một nửa thời hạn hình phạt và cải tạo tốt, trong khi đó điều luật này không quy định việc miễn chấp hành phần hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc công việc nhất định, tước một số quyền công dân và một số HPBS khác, mặc dù người bị kết án đáp ứng đầy đủ các điều kiện tương tự.
- Chúng tôi cho rằng, không quy định áp dụng chế định miễn, giảm hình phạt đối với HPBS sẽ dẫn đến tình trạng không đảm bảo sự đồng bộ trong việc quy định các trường hợp miễn, giảm hình phạt, không chỉ trong BLHS mà còn cả trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
- Đồng thời việc quy định chế định miễn, giảm hình phạt đối với HPBS sẽ khuyến khích, động viên người bị kết án cải tạo tiến bộ, lập công.
- Vì vậy, BLHS cần thiết quy định các chế định này đối với tất cả các loại HPBS.
- Theo chúng tôi, Điều 57 BLHS có thể quy định như sau: Khoản 1 của Điều luật này vẫn giữ nguyên như quy định hiện tại và bổ sung thêm đoạn 2 với nội dung là: Đối với người bị phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, cấm cư trú hoặc quản chế, tước quyền công dân, tịch thu tài sản, phạt tiền là HPBS, chưa chấp hành hình phạt mà lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và nếu người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa thì theo đề nghị của viện trưởng viện kiểm sát, tòa án có thể quyết định miễn toàn bộ hình phạt cho họ.
- Khoản 5 của Điều luật này sửa đổi như sau: Đối với người bị phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, cấm cư trú hoặc quản chế, tước quyền công dân nếu đã chấp hành được một phần hai thời hạn hình phạt và cải tạo tốt, thì theo đề nghị của cơ quan có trách nhiệm theo dõi thi hành án, tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.
- Đồng thời, khoản 1 Điều 268 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 cũng cần sửa đổi, bổ sung như sau cho đồng bộ: Người đang chấp hành án phạt tù, cải tạo không giam giữ, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước quyền công dân, cấm cư trú hoặc quản chế, có thể được giảm thời hạn chấp hành hình phạt theo quy định tại các điều và 76 BLHS.
- nếu họ chưa chấp hành hình phạt thì có thể được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 5 Điều 57 BLHS.
- Thứ tư, Đề nghị xóa bỏ Điều 92 quy định các HPBS áp dụng với các tội xâm phạm an ninh quốc gia.
- Điều luật quy định riêng về hình phạt lại cơ cấu cùng với các quy phạm quy định về tội phạm cụ thể, đồng thời việc HPBS quy định chung cho cả nhóm tội phạm sẽ khó trong việc phân hóa TNHS và cá thể hóa hình phạt và cũng không thuận tiện cho việc áp dụng của các tòa án.
- Thông thường người ta hiểu là nó được quy định áp dụng cho tất cả các khung hình phạt trong điều luật về tội phạm ấy.
- Thứ sáu, trong các điều luật quy định về hình phạt cấm cư trú, quản chế, tước một số quyền công dân đều quy định các hình phạt này được áp dụng đối với người bị kết án phạt tù, do việc quy định không rõ ràng nên có quan điểm là các hình phạt này không chỉ áp dụng với người bị phạt tù có thời hạn mà cả đối với người bị phạt tù chung thân.
- Về vấn đề này chúng tôi đã khẳng định là các hình phạt này chỉ nên quy định áp dụng đối với người phạm tội bị kết án phạt tù có thời hạn.
- Với tinh thần đó, đề nghị bổ sung thêm cụm từ có thời hạn đằng sau cụm từ người bị kết án phạt tù và cụm từ chấp hành xong hình phạt tù trong những điều luật ở Phần chung BLHS quy định về những hình phạt đó.
- Nếu trong trường hợp vẫn quy định các HPBS này được áp dụng với người bị phạt tù chung thân, theo kinh nghiệm của Trung Quốc {1}, chúng tôi đề nghị quy định cụ thể vào các điều luật quy định về các HPBS cấm cư trú, quản chế hoặc tước quyền công dân việc áp dụng cũng như thời hạn của các hình phạt này trong trường hợp chuyển từ tù chung thân sang tù có thời hạn đối với người bị kết án được giảm án theo quy định tại Điều 58 BLHS.
- Những kiến nghị tiếp tục hoàn thiện các quy định của BLHS đối với các HPBS cụ thể 2.1.
- Về hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định Thứ nhất, cần sửa đổi Điều 36 BLHS theo hướng xác định rõ nội dung, phạm vi, điều kiện và thời hạn của hình phạt này, cụ thể như sau: 1.
- Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định là hình phạt bổ sung không cho phép người bị kết án cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn hoặc tù cho hưởng án treo, được đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc nhất định, nếu họ đã thực hiện tội phạm bằng việc lợi dụng, lạm dụng chức vụ, nghề nghiệp, công việc nhất định hoặc có liên quan tới chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp hoặc công việc đó.
- Thời hạn cấm là từ 1 năm đến 5 năm, tính từ ngày chấp hành xong hình phạt tù có thời hạn hoặc từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu hình phạt chính là cải tạo không giam giữ hoặc trong trường hợp người bị kết án phạt tù được hưởng án treo..
- Thứ hai, trong Phần các tội phạm BLHS cần quy định tùy nghi áp dụng hình phạt này đối với các tội phạm sau: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 104), tội kinh doanh trái phép (Điều 159), tội trốn thuế (Điều 161), tội lừa dối khách hàng (Điều 162).
- Riêng đối với tội buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc trái pháp luật (Điều 128) cần quy định hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định.
- Thứ ba, đối với các loại tội phạm sau, do bản chất rất nguy hiểm của chúng, nên cần phải chuyển từ quy định tùy nghi sang dạng quy định bắt buộc áp dụng loại hình phạt này, đó là tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 57).
- các tội phạm về ma túy quy định tại các điều và 196.
- Thứ tư, nên sửa đổi, bổ sung các quy định về hình phạt này đối với các tội phạm sau.
- Còn đối với các tội làm sai lệnh hồ sơ vụ án (Điều 300) và tội thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn (Điều 301) cũng cần quy định đầy đủ các nội dung của hình phạt này, tức là quy định cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm những công việc nhất định..
- Cuối cùng là khoản 3 của Điều 169 và Điều 170 cần bổ sung từ nhất định sau cụm từ cấm đảm nhiệm chức vụ để đảm bảo tính chuẩn xác và thống nhất của loại hình phạt này trong việc quy định nó với các tội phạm khác nhau.
- Về hình phạt tước một số quyền công dân Thứ nhất, tên gọi của loại hình phạt này cần phải sửa lại cho phù hợp với nội dung của điều luật.
- Theo chúng tôi, chỉ cần quy định tên của hình phạt là hình phạt tước quyền công dân.
- Thứ hai, Điều 39 BLHS nên sửa đổi theo hướng xác định chính xác nội dung, phạm vi và thời hạn áp dụng loại hình phạt này như sau: “1.
- Thời hạn tước quyền công dân là từ 01 năm đến 5 năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù có thời hạn”.
- Thứ ba, ngoài chương XI, cần xem xét quy định cụ thể loại hình phạt này đối với một số tội phạm ở các chương khác Phần các tội phạm của BLHS.
- Theo chúng tôi đối với những tội phạm mà điều luật về tội phạm đó có quy định hình phạt quản chế, cấm cư trú thì nên quy định cả hình phạt này để tòa án lựa chọn.
- Đồng thời, đối với các tội phạm xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân cũng cần xem xét quy định loại hình phạt này, như các tội quy định tại các điều đến 334 Chương XXIII BLHS.
- Cấm cư trú Thứ nhất, Điều 37 BLHS quy định nội dung của hình phạt cấm cư​ trú chư​a đầy đủ có thể dẫn đến tùy tiện trong việc áp dụng vì thế cần phải sửa đổi, bổ sung là: trong thời gian cấm cư​ trú ng​ười bị kết án không đư​ợc tạm trú và thường trú ở một số địa phư​ơng nhất định và phải chịu một số nghĩa vụ bắt buộc khác theo quy định của pháp luật.
- Chúng tôi cho rằng, các nghĩa vụ pháp lý bắt buộc ng​ười bị kết án cấm cư trú phải thực hiện được quy định trong Nghị định số 53/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày về việc hướng dẫn thi hành hình phạt cấm cư trú và quản chế, cần phải được quy định rõ ràng trong Điều 37 BLHS.
- Thứ hai, cần xác định rõ phạm vi và điều kiện áp dụng của hình phạt này.
- Theo chúng tôi, hình phạt này chỉ nên quy định áp dụng đối với ng​ười bị phạt tù có thời hạn về tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt, một số tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng và trật tự quản lý hành chính, các tội phạm về ma túy trong những trư​ờng hợp luật có quy định.
- Ngoài ra, cần mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt này đối với các đối tư​ợng là ng​ười tái phạm nguy hiểm hoặc phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.
- Như​ vậy, theo chúng tôi cần thiết mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt này đối với một số tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt, mà ng​ười phạm tội có nhân thân xấu, phạm tội có tính chuyên nghiệp, phạm tội trong tr​ường hợp tái phạm nguy hiểm.
- Quản chế Thứ nhất, Điều 38 BLHS đã có quy định nội dung cơ bản của hình phạt quản chế nhưng vẫn chưa đầy đủ.
- Theo nguyên tắc pháp chế, hình phạt và toàn bộ nội dung của hình phạt phải được luật quy định, chứ không phải là văn bản dưới luật quy định, vì thế theo quan điểm của chúng tôi, tại điều luật này cần phải bổ sung thêm những nghĩa vụ của người quản chế mà Nghị định số 53/2001/NĐ-CP ngày về việc hướng dẫn thi hành hình phạt quản chế đã quy định, Nghiên cứu luật hình sự (LHS) của nhiều nước như Pháp, Đức, Canada và Trung Quốc đều cho thấy thấy quy định nội dung hình phạt hoặc các biện pháp miễn, giảm hình phạt rất rõ ràng và chi tiết trong BLHS.
- Đồng thời, cần thiết quy định hình phạt này đối với các tội hiếp dâm (Điều 111 và Điều 112).
- các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt quy định tại các điều trong trường hợp tái phạm nguy hiểm.
- Thứ ba, như đã trình bày, khi quyết định hình phạt quản chế thì tòa án đồng thời phải tuyên tước một hoặc một số quyền công dân của bị cáo và cấm bị cáo hành nghề hoặc làm công việc nhất định.
- Trục xuất Thứ nhất, trong Điều 32 BLHS cần phải quy định cụ thể trục xuất được áp dụng đối với người phạm loại tội nào và nếu là HPBS thì nó được áp dụng kèm theo loại HPC nào, đồng thời cũng phải quy định cụ thể giới hạn của loại hình phạt này.
- Trên cơ sở các quy định tại Điều 32, nhà làm luật cần cân nhắc quy định cụ thể hình phạt trục xuất với tư cách là HPC hoặc là HPBS với các tội phạm cụ thể trong phần các tội phạm BLHS.
- Thứ hai, ngoài việc quy định rõ nội dung, điều kiện, phạm vi và thời hạn của hình phạt trục xuất, BLHS nước ta cũng cần phải quy định rõ thời hiệu thi hành án, xóa án tích, miễn chấp hành hình phạt đối với người bị kết án trục xuất.
- Đây là những chế định nhân đạo thể hiện không chỉ trong LHS Việt Nam mà còn trong LHS đa số các nước trên thế giới có quy định loại hình phạt này.
- Phạt tiền Thứ nhất, cần sửa đổi Điều 30 BLHS theo hướng xác định rõ nội dung, phạm vi và điều kiện áp dụng hình phạt tiền, mức tối thiểu của hình phạt tiền bổ sung, cũng như biện pháp cưỡng chế trong trường người bị kết án cố tình không chịu nộp tiền phạt, cụ thể như sau: “1.… 2.
- Phạt tiền là hình phạt tước một khoản tiền nhất định của người bị kết án cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân hoặc tử hình về các tội xâm phạm sở hữu, các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, các tội phạm về môi trường, các tội xâm phạm trật tự công cộng, các tội phạm tham nhũng, ma túy hoặc những tội phạm khác do Bộ luật này quy định.
- Mức phạt tối thiểu của hình phạt tiền với tính chất là hình phạt chính là 05 triệu đồng.
- mức phạt tối thiểu của hình phạt tiền bổ sung là 03 triệu đồng.
- Trong trường hợp người bị kết án cố tình không nộp tiền phạt thì bị Tòa án quyết định chuyển hình phạt tiền sang hình phạt tù có thời hạn có mức tối thiểu là.
- Thứ hai, cần mở rộng hơn nữa phạm vi các tội phạm được áp dụng hình phạt tiền với tính chất HPBS, nhằm đáp ứng kịp thời tình hình diễn biến của nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Việc tăng cường hình phạt tiền cũng là một đòi hỏi được Bộ Chính trị đặt ra trong Nghị quyết số 49/NQ-TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
- Chúng tôi cho rằng, hình phạt này không chỉ quy định áp dụng đối với các loại tội phạm gây thiệt hại về vật chất, như: Các tội xâm phạm sở hữu.
- Các tội phạm tham nhũng, ma túy, mà cần thiết quy định hình phạt này đối với cả các loại tội phạm khác gây thiệt hại về chính trị hoặc tinh thần.
- Thứ tư, đối với hình phạt tiền với tính chất là HPBS, cần quy định mức phạt tiền thấp hơn mức phạt tiền tại khung chế tài được quy định là HPC, đồng thời xem xét thu hẹp khoảng cách tối thiểu và tối đa của mức phạt tiền đối với một số tội để đảm bảo sự phân hóa TNHS và cá thể hóa hình phạt được chính xác, từ đó khắc phục nhược điểm đã phân tích ở phần nhận xét nêu ở chương 2 luận án này.
- Thứ năm, BLHS cần mở rộng khả năng áp dụng chế định miễn chấp hành hình phạt tiền hoặc giảm mức hình phạt tiền (cả với tư cách là HPC và HPBS) đối với những trường hợp thực tế không có khả năng thi hành hoặc có nhiều tình tiết giảm nhẹ đáng kể.
- Tịch thu tài sản Thứ nhất, cần phải xác định cụ thể và chính xác nội dung, điều kiện và phạm vi của hình phạt này trong Điều 40 BLHS.
- Thứ hai, không nên quy định có tính chất bắt buộc áp dụng hình phạt này đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140).
- Nếu vẫn quy định có tính chất bắt buộc áp dụng thì khoản 5 của Điều 140 sửa lại như sau: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này, có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng.
- Không cần thiết quy định thêm đoạn "hoặc một trong hai hình phạt này".
- Nghiên cứu thực tiễn pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật của tòa án các cấp, chúng tôi nhận thấy còn có những vướng mắc, cách hiểu khác nhau liên quan đến chế định HPBS cần phải có sự giải thích và hướng dẫn áp dụng thống nhất của các cơ quan có thẩm quyền, đó là: Thứ nhất, Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 4/8/2000 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần chung của BLHS năm 1999 quy định: “Chỉ trong trường hợp mà Điều 92 hoặc điều luật quy định về tội phạm và hình phạt của BLHS năm 1999 có quy định hình phạt bổ sung là quản chế, thì mới được áp dụng loại hình phạt bổ sung này”.
- Hướng dẫn này chỉ liên quan đến hình phạt quản chế, còn không đề cập đến các HPBS khác.
- Chúng tôi cho rằng, không chỉ đối với hình phạt quản chế mà còn đối với các HPBS khác, nếu điều luật về tội phạm và hình phạt trong Phần các tội phạm của BLHS không quy định HPBS nào đó thì tòa án cũng được phép áp dụng nó.
- Đây là yêu cầu của nguyên tắc pháp chế về quy định và áp dụng hình phạt trong LHS Việt Nam.
- Thứ hai, liên quan đến việc áp dụng các hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.
- tước một số quyền công dân kèm theo hình phạt tù chung thân hoặc tử hình.
- Theo chúng tôi, trong khi BLHS chưa có sự điều chỉnh chính thức về vấn đề này, TANDTC cần hướng dẫn theo hướng không áp dụng các loại HPBS trên kèm theo hình phạt tù chung thân hoặc tử hình.
- Thực tiễn áp dụng hình phạt quản chế cho thấy hầu hết các trường hợp tòa án các cấp không quyết định tước một số quyền công dân, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định đối với người bị phạt quản chế.
- Theo Điều 38 BLHS quy định, tòa án khi áp dụng hình phạt quản chế phải quyết định tước một hoặc một số quyền công dân cụ thể, cũng như cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định đối với người bị kết án.
- Theo chúng tôi, tước quyền công dân và cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định không phải là HPBS mà nó thuộc về nội dung của hình phạt quản chế.
- Trong khoản 2 Điều 12 Nghị định số 53/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 của Chính phủ hướng dẫn thi hành các hình phạt cấm cư trú và quản chế cũng thể hiện rõ điều đó, khi quy định.
- Vì vậy, TANDTC cần phải có hướng dẫn cụ thể để đảm bảo việc áp dụng hình phạt quản chế ở tòa án các cấp đúng luật và thống nhất.
- Thứ tư, về việc áp dụng chế định miễn hình phạt theo Điều 54 BLHS.
- Chế định miễn hình phạt được áp dụng "trong trường hợp phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, đáng được khoan hồng đặc biệt, nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự" (Điều 54).
- Như vậy, điều luật này quy định miễn hình phạt có tính chất chung, tức là nó có thể được áp dụng đối với cả HPC và HPBS.
- Thế nhưng, theo số liệu thống kê xét xử và nghiên cứu nội dung các bản án có áp dụng HPBS của tòa án các cấp, không có trường hợp người bị kết án về các tội mà điều luật về tội phạm và hình phạt có quy định HPBS là bắt buộc được tòa án miễn HPBS theo Điều 54 BLHS.
- Để tránh tình trạng trên, TANDTC cần hướng dẫn tòa án các cấp theo hướng áp dụng chế định miễn hình phạt đối với các trường hợp điều luật về tội phạm và hình phạt có quy định HPBS là bắt buộc.
- PGS.TS Trần Văn Độ cũng đồng tình với quan điểm này và nhấn mạnh: “Việc áp dụng chế định miễn hình phạt bổ sung khắc phục được sự bất hợp lý trong một số trường hợp phạm tội, khắc phục tình trạng tòa án cố tình "quên" không áp dụng HPBS trong một số trường hợp.
- Tăng cường công tác giám đốc xét xử, thanh tra, kiểm tra hoạt động áp dụng hình phạt bổ sung của Tòa án các cấp.
- Bên cạnh năng lực chuyên môn, một trong những nhân tố ảnh hưởng đến tính đúng đắn trong hoạt động áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng hình phạt nói riêng, trong đó có áp dụng HPBS, đó là ý thức pháp luật và ý thức trách nhiệm của người thẩm phán.
- Như vậy, để hình phạt nói chung và HPBS nói riêng có thể đạt hiệu quả cao trong thực tiễn áp dụng, một trong những việc không kém phần quan trọng là nâng cao nhận thức của thẩm phán về tầm quan trọng, về vai trò, ý nghĩa, mục đích của hình phạt nói chung và HPBS nói riêng trong thực hiện CSHS của Đảng và Nhà nước ta được cụ thể hóa trong Điều 3 BLHS năm 1999.
- Chúng ta đều nhận thức rõ, việc áp dụng hình phạt nói chung và HPBS nói riêng là hoạt động chuyên môn của thẩm phán liên quan đến các nhu cầu khác nhau trong xã hội (nhu cầu xã hội, nhu cầu cá nhân người bị áp dụng).
- Do vậy, việc áp dụng hình phạt có đảm bảo hiệu quả trong thực tiễn không, rõ ràng phụ thuộc đáng kể vào ý thức pháp luật, đạo đức nghề nghiệp và bản lĩnh của người thẩm phán.
- Vì vậy, theo chúng tôi cần phải tổ chức nghiên cứu, tham khảo, học tập, trao đổi kinh nghiệm của một số nước về hệ thống PLHS, trong đó có chế định hình phạt và HPBS.
- Trần Văn Độ, Một số ý kiến về quyết định hình phạt bổ sung, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 7-1990, tr