« Home « Kết quả tìm kiếm

Những vấn đề pháp lý đặt ra từ cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động ở Việt Nam


Tóm tắt Xem thử

- Những vấn đề pháp lý đặt ra từ cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động ở Việt Nam.
- Abstract: Làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động..
- Đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy việc vận hành cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động..
- Luật lao động.
- Cơ chế ba bên.
- Cơ chế ba bên (CCBB) trong lĩnh vực lao động xuất hiện và tồn tại một cách tự nhiên.
- Trên thế giới, cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động được xác lập và vận hành từ lâu.
- Sự tồn tại của cơ chế ba bên đã góp phần xây dựng và pháp triển các mối quan hệ lao động giữa nhà nước, người sử dụng lao động và người lao động, tạo ra sự ổn định và phát triển của xã hội nói chung, lĩnh vực lao động nói riêng.
- Sự tồn tại, phát triển và hoạt động của ILO đã kích lệ các quốc gia xây dựng và vận hành cơ chế ba bên ở nước mình tạo ra môi trường lao động hài hoà ổn định và mang lại nhiều lợi ích cho quốc gia, xã hội..
- Tuy nhiên cơ chế ba bên còn là vấn đề mới mẻ ở Việt Nam, về lý luận chưa được nghiên cứu nhiều, các quy định pháp luật về cơ chế hợp tác ba bên còn ít, việc vận hành trên thực tế còn hình thức, hiệu quả còn hạn chế, do đó đề tài : “Những vấn đề pháp lý đặt ra từ cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động ở Việt Nam” sẽ nghiên cứu để đưa ra những giải pháp góp phần xây dựng, nâng cao hiệu lực, vận dụng các quy định của pháp luật về cơ chế ba bên ở Việt Nam hiện nay..
- Qua các nguồn thông tin mà tác giả có thể tiếp cận được thì hiện nay có một luận án tiến sỹ “Cơ chế ba bên trong việc giải quyết tranh chấp lao động ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Xuân Thu - Đại học Luật Hà Nội, nghiên cứu vấn đề cơ chế ba bên trong việc giải quyết tranh chấp lao động, đề tài “Cơ chế ba bên – Pháp luật và thực tiễn hoạt động” của Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội do TS.GVC Lê Thi Hoài Thu chủ trì.
- tiếp đến là các bài viết của TS Lưu Bình Nhưỡng như Một số vấn đề lý luận, pháp lý và điều kiện phát triển Cơ chế ba bên ở Việt Nam - Tạp chí Luật học số 12/2006, Việc giải quyết tranh chấp lao động tập thể và đình công - Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 10/2006.
- TS Đào Thị Hằng : Cơ chế ba bên và khả năng thực thi trong pháp luật lao động Việt Nam - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật tháng 11/2005.
- ThS Nguyễn Hữu Chí : Vai trò của công đoàn trong cơ chế ba bên và giải quyết tranh chấp lao động - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật tháng 10/2001.
- Trong nền kinh tế thị trường hiện nay việc nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động mang ý nghĩa lý Luận và thực tiễn sâu sắc.
- Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý cũng như cơ sơ sở lý luận, việc vận dụng cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động.
- Trong nội dung trình bày, tác giả sẽ đưa ra những nhận xét, đánh giá thực tiễn việc thực hiện các quy định pháp luật liên quan đến cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động.
- Tìm ra các luận cứ khoa học và thực tiễn cho các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động..
- +Làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động..
- Ký kết hợp đồng, thoả ước lao động tập thể.
- giải quyết tranh chấp lao động..
- Thứ nhất, luận văn góp phần xây dựng hệ thống lý luận về cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động..
- Thứ ba, luận văn kiến nghị và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động ở Việt Nam..
- Chương 3 : Một số giải pháp nhằm thúc đẩy việc vận hành cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động.
- Cơ chế ba bên là một quá trình dân chủ hoá mối quan hệ lao động.
- Thứ nhất, cơ chế ba bên góp phần vào việc hoạch định chủ trương, chính sách về lĩnh vực lao động một cách đúng đắn, sát thực tế và có tính khả thi cao..
- Thứ hai, cơ chế ba bên là biện pháp để nâng cao hiệu quả quản lý lao động, bảo đảm hiệu quả của các quy định về quản lý lao động được thực hiện trên thực tế..
- Thứ ba, cơ chế ba bên góp phần ổn định các quan hệ lao động, điều hoà lợi ích các bên, thúc đẩy quan hệ lao động phát triển..
- Nhà nước thông qua các quy định pháp luật đã ghi nhận và xác nhận cơ chế hợp tác giữa các bên trong các mối quan hệ của lĩnh vực lao động..
- Từ những vấn đề nêu trên có thể nhận xét: Cơ chế ba bên thể hiện tính xã hội, là một quá trình dân chủ hoá mối quan hệ lao động và là cơ chế hợp tác, chia sẻ quyền lực, trách nhiệm giữa Nhà nước, NSDLĐ, NLĐ.
- Cơ chế ba bên góp phần vào việc hoạch định chủ trương, chính sách về lĩnh vực lao động một cách đúng đắn sát thực tế và có tính khả thi cao, là biện pháp để nâng cao hiệu quả quản lý lao động, bảo đảm hiệu quả của các quy định về quản lý lao động được thực hiện trên thực tế, đồng thời góp phần ổn định các quan hệ lao động, điều hoà lợi ích các bên, giảm bớt xung đột, mâu thuẫn thúc đẩy quan hệ lao động phát triển..
- Các quy định về cơ chế ba bên trong quan hệ lao động ở nước ta được ghi nhận ở những mức độ khác nhau trong nhiều văn bản pháp lý, cơ chế ba bên được thể hiện ngay tại Điều 10 trong Hiến pháp (1992), văn bản pháp lý cao nhất của Nhà nước..
- Vị trí vai trò của Chính phủ được quy định trong Điều 109 Hiến Pháp (1992), trong Điều 39 Luật Tổ chức Chính phủ (2001), những nhiệm vụ cụ thể được quy định trong các văn bản pháp luật khác nhau, về lĩnh vực lao động vai trò của Chính phủ được quy định, tại điều 181 Bộ luật lao động (1994), Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về lao động trong phạm vi cả nước.
- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện quản lý Nhà nước về lao động đối với các ngành và các địa phương trong cả nước.
- Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý Nhà nước về lao động trong phạm vi địa phương mình.
- Cơ quan lao động địa phương.
- giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý Nhà nước về lao động theo sự phân cấp của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội..
- Qua xem xét chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ mà đại diện là Bộ lao động Thương binh và Xã hội ở cấp Trung ương, chúng ta thấy được vai trò quan trọng của đối tác này trong cơ chế ba bên.
- 2.2.2 Đại diện người sử dụng lao động.
- Tổ chức đại diện của người sử dụng lao động do những người sử dụng lao động lập ra, để đại diện cho người sử dụng lao động tham gia vào các quan hệ lao động và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người sử dụng lao động.
- 2.2.3 Đại diện tập thể lao động.
- Theo pháp luật Việt Nam Công đoàn là cơ quan đại diện hợp pháp của người lao động tham gia vào cơ chế ba bên.
- Chức năng nhiệm vụ của Công đoàn được quy định trong Luật Công đoàn trong đó có nhiều quy định liên quan tới việc thực hiên cơ chế ba bên của Công đoàn với tư cách là bên đại diện cho người lao động tham gia vào cơ chế ba bên..
- 2.3 Cơ chế ba bên trong pháp luật lao động Việt Nam 2.3.1 Trong việc xây dựng chính sách, pháp luật lao động.
- Ở Việt Nam vấn đề vận dụng cơ chế ba bên trong việc tham gia xây dựng chính sách, pháp luật lao động được thực hiện trên thực tế một cách phổ biến.
- Trong lĩnh vực lao động khi Bộ lao động được giao chủ trì soạn thảo thì các bên tham gia có đại diện của Người sử dụng lao động, đại diện của Người lao động tham gia đóng góp.
- 2.3.2 Trong việc thực hiện các quy định trong lĩnh vực lao động.
- 2.3.2.1 Về ký kết thoả ước lao động tập thể.
- Đây là văn bản thoả thuận giữa tập thể lao động và người sử dụng lao động về các điều kiện lao động và sử dụng lao động, quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ lao động.
- Việc thực hiện CCBB trong quá trình thương lượng ký kết thoả ước lao động tập thể ở Việt Nam đã thu được nhiều hiệu quả, nhưng đạt được chưa cao..
- 2.3.2.2 Trong lĩnh vực tiền lương: Được coi là vấn đề quan trọng nhất mà người lao động hướng tới, vì vậy vấn đề tiền lương luôn được các bên quan tâm, Chính phủ bằng quy.
- Với CCBB trong lĩnh vực này đã giúp cho các bên đi đến sự thống nhất góp phần vào sự ổn định của quan hệ lao động, tuy nhiên cần tăng cường hơn nữa vai trò của công đoàn để bảo vệ quyền lợi cho người lao động..
- 2.3.2.3 Trong lĩnh vực làm thêm giờ, thời gian nghỉ ngơi: Được quy định trong Bộ luật lao động 2002 tại điều 69.
- 2.3.2.4 Trong lĩnh vực an toàn lao động, vệ sinh lao động: Đây là lĩnh vực được quan tâm đặc biệt vì nó liên quan tới sức khoẻ, tính mạng của NLĐ.
- 2.3.3 Cơ chế ba bên trong việc tham gia giải quyết tranh chấp lao động.
- Về tổ chức, cơ quan giải quyết tranh chấp lao động: Qua phân tích thì về phương diện pháp luật, trong số các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động theo quy định của pháp luật Việt nam hiện nay chỉ có Hội đồng trọng tài lao động được quy định việc thành lập với sự tham gia của ba bên theo đúng nghĩa ba bên tham gia cùng thành lập.
- Về lý thuyết thì Toà án lao động cấp Huyện cũng có thể được thiết lập theo cơ chế ba bên.
- Vận dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động:.
- Vận dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Hội đồng trọng tài: Về phương diện pháp luật việc vận dụng cơ chế ba bên trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động bằng.
- trọng tài ở nước ta là rõ nét nhất so với các thủ tục giải quyết tranh chấp lao động khác được quy định trong luật lao động Việt nam, khi giải quyết tranh chấp lao động ba bên ở đây bình đẳng trong việc quyết định các công việc chung của Hội đồng.
- Có thể nói nếu xét về mặt lý thuyết việc vận dụng cơ chế ba bên trong việc giải quyết tranh chấp lao động thì đây là hình thức lý tưởng theo đúng nghĩa của cơ chế ba bên.
- Mối quan hệ giữa các bên trong cơ chế được thực hiện trên rất nhiều lĩnh vực, từ việc xây dựng chính sách, việc thực hiện các quy định pháp luật lao động trên thực tế đến quá trình giải quyết các tranh chấp pháp sinh trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật lao động.
- Cơ sở pháp lý về cơ chế ba bên và việc vận hành cơ chế ba bên ở Việt Nam trong thời gian qua bước đầu đã mang lại những hiệu quả tích cực trên nhiều mặt, cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động đã góp phần vào sự ổn định và phát triển của các quan hệ lao động..
- MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY VIỆC VẬN HÀNH CƠ CHẾ BA BÊN TRONG LĨNH VỰC LAO ĐỘNG.
- Một nền kinh tế ổn định và phát triển hài hoà thì ở đó các mối quan hệ lao động phải phát triển hài hoà và lợi ích của các bên tham gia phải được bảo đảm..
- thực hiện tốt cơ chế phối hợp ba bên ở cấp ngành và địa phương về quan hệ lao động, thúc đẩy ký kết thoả ước lao động tập thể cấp ngành”.
- Qua những hoạt động của CCBB ở Việt Nam thời gian qua cho thấy không ai có thể phủ nhận được cơ chế đối thoại và vai trò của nó đối với xã hội đặc biệt là trong lĩnh vực lao động, cơ chế đối thoại được thừa nhận là sự cần thiết để xây dựng môi trường, quan hệ lao động lành mạnh, hài hoà, ổn định vì lợi ích chung của các bên và của xã hội..
- Khi đó họ không phải là đại diện cho người lao động mà thực chất họ đại diện cho người sử dụng lao động, vì mục đích của người sử dụng lao động mà thôi, việc.
- Thứ hai, việc hoàn thiện phải bảo đảm tuân thủ các nguyên tắc của luật lao động Việt Nam, đặt trong bối cảnh chung của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam..
- 3.3 Một số giải pháp nhằm thúc đẩy việc vận hành cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động.
- Một là, đẩy mạnh việc tuyên truyền vai trò ý nghĩa của cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động.
- Theo quy định của Quyết định này thì Ủy ban Quan hệ lao động là cơ quan ở Trung ương và có chức năng tư vấn cho Thủ tướng về cơ chế, chính sách.
- Do vậy cần sửa đổi bổ sung quyết định 68 theo hướng có quy định thành lập cơ quan lao động cấp tỉnh với chức năng, nhiệm vụ tương tự như cơ quan ở cấp Trung ương..
- Cùng với việc quy định việc hình thành cơ quan lao dộng cấp tỉnh thì việc sửa đổi bổ sung quyết định 68/2007/QĐ-TTg cũng cần quy định Ủy ban Quan hệ lao động ngoài chức năng tư vấn việc thực hiện chính sách như hiện nay còn thực hiện chức năng tư vấn cả trong việc xây dựng, hoạch định cơ chế chính sách, pháp luật trong lĩnh vực lao động..
- Sáu là, Trong việc tham gia giải quyết tranh chấp lao động:.
- Về cơ quan thành lập Hội đồng trọng tài lao động Theo quy định tại Điều 164 Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động, Hội đồng trọng tài lao động là cơ quan do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thành lập..
- Như vậy, UBND cấp tỉnh là cơ quan có thẩm quyền thành lập Hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh.
- Vì vậy các cơ quan có thẩm quyền cần nhanh chóng hướng dẫn cụ thể để thực hiện thống nhất quy định về thẩm quyền thành lập Hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh.
- Về số lượng thành viên trong Hội đồng trọng tài lao động.
- Hội đồng trọng tài lao động do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thành lập, số lượng thành viên của Hội.
- đồng trọng tài lao động là số lẻ và không quá bảy người.
- Hội đồng trọng tài lao động quyết định phương án hoà giải theo nguyên tắc đa số, bằng cách bỏ phiếu..
- Bảy là, Với thoả ước lao động tập thể ngành :Ở Việt Nam, Luật Lao động (2002) đã quy định về Thoả ước lao động tập thể ngành (Điều 54).
- Tạo ra sự hài hoà về quyền lợi của người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc cùng một ngành nghề.
- Mang đến sự ổn định và phát triển quan hệ lao động của một ngành nghề sản xuất..
- Tám là, xác định chủ thể để đại diện và bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người lao động ở những doanh nghiệp chưa thành lập được công đoàn cơ sở..
- Điều 153, Bộ luật Lao động hiện hành quy định công đoàn cơ sở phải được thành lập sau sáu tháng kể từ ngày doanh nghiệp bắt đầu hoạt động để đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
- Bộ luật Lao động hiện hành cũng quy định cho công đoàn cơ sở rất nhiều quyền và trách nhiệm cơ bản trong xác lập và tiến hành quan hệ lao động tại doanh nghiệp.
- Chính do bởi số lượng thấp công đoàn cơ sở được thành lập ở các doanh nghiệp nên ở những doanh nghiệp này không có ai là người đại diện, bảo vệ quyền lợi của người lao động, đối thoại về các vấn đề quan hệ lao động và đại diện giải quyết tranh chấp lao động trong doanh nghiệp..
- Nhằm nâng cao hiệu quả của cơ chế ba bên, để cơ chế ba bên trở thành cách thức thực hiện trong lĩnh vực lao động, đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu, xây dựng một hệ thống các quy định về cơ chế ba bên một cách đồng bộ, phù hợp, để cơ chế ba bên phát huy được những ưu điểm của mình trên thực tế trong lĩnh vực lao động, góp phần tạo lập môi trường lao động phát triển hài hoà, ổn định..
- Cơ chế ba bên vừa là cách để xây dựng quan hệ lao động lành mạnh, thông qua trao đổi thông tin, tham vấn và đàm phán, vừa là mục tiêu của quá trình tạo dựng quan hệ lao động (tạo ra cơ chế dân chủ để các bên tham gia).
- Cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động hình thành và tồn tại một cách khách quan khi quan hệ lao động phát triển đến một giai đoạn cao.
- Ơ Việt Nam cơ chế ba bên đã từng bước được hình thành và phát triển, đặc biệt là từ khi Bộ luật lao động được ban hành đã tạo tiền đề pháp lý quan trọng cho sự phát triển ở Việt Nam.
- Trên thực tế Cơ chế ba bên đã hình thành và được vận dụng ở Việt Nam trên nhiều mặt, từ việc xây dựng chương trình, chính sách pháp luật đến việc xây dựng các văn bản pháp luật, đến việc thực hiện các quy định của luật lao động trên thực tế, như ký kết thoả ước lao động tập thể, vấn đề tiền công, tiền lương, vấn đề việc làm, thời gian lao động, vệ sinh an toàn lao động, giải quyết tranh chấp lao động….Tóm lại là cơ chế ba bên được quy định và vận dụng rộng rãi trong các quan hệ lao động.
- Do đó, việc nâng cao hiệu quả của cơ chế ba bên cần được tiếp tục nghiên cứu và vận dụng một cách khoa học để các quan hệ lao động phát triển một cách hài hoà mang lại lợi ích cho tất cả các bên, để tạo nên một môi trường lao động lành mạnh phát triển đúng hướng, góp phần vào sự ổn định và phát triển chung của xã hội theo đúng định hướng mà Nhà nước đặt ra..
- Bộ luật lao động (1994) và Luật sửa đổi, bổ sung .
- Đào Thị Hằng (2005), “Cơ chế ba bên và khả năng thực thi trong pháp luật lao động Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số 01), tr.44..
- Nghị định 145/2004/NĐ-CP ngày 14/7/2004 quy định chi tiết thi hành Bộ luật lao động về việc Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và đại diện của người sử dụng lao động tham gia với cơ quan Nhà nước về chính sách, pháp luật và những vấn đề có liên quan đến quan hệ lao động..
- Quyết định 68/2007/QĐ-TTg ngày 17/5/2007 của Thủ tướng chính phủ về việc thành lập Uỷ ban quan hệ lao động..
- Nguyễn Xuân Thu (2008), Cơ chế ba bên trong việc giải quyết tranh chấp lao động ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.31-33.