« Home « Kết quả tìm kiếm

Phân tích đoạn thơ Nỗi thương mình của Nguyễn Du


Tóm tắt Xem thử

- Phân tích ‘Nỗi thương mình’ trích Truyện Kiều - Ngữ văn 10.
- Từ lúc gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên lại cho em là Thúy Vân, Kiều đã trải qua 15 năm lưu lạc, trong 15 năm ấy, Kiều gặp phải bao sự lọc lừa nhưng lần Thúy Kiều bị lừa đau đớn nhất có lẽ là lần nàng bị Mã Giám Sinh lừa bán đến lầu xanh.
- Nó là bước ngoặt bẻ ngang cuộc đời Thúy Kiều rẽ sang một hướng khác.
- Tiếp đó là những tháng ngày ê chề nhục nhã của nàng trong vai trò kĩ nữ – gái làng chơi, đem tấm thân trong ngọc trắng ngà của mình mua vui cho những kẻ lắm tiền háo sắc.
- Những ngày Thúy Kiều ở chốn lầu xanh là những ngày nàng vô cùng buồn tủi, tâm trạng rối bời như tơ vò nghĩ về thân phận, sự tủi nhục của kiếp hồng nhan.Đoạn trích có một kết cấu khá logic với diễn biến tâm trạng và trớ trêu của cuộc đòi đầy bất hạnh khi nghe những lời độc thoại nội tâm dầy đau đớn: “Khi tỉnh rượu …xuân là gì?” Đó cũng là thời điểm mở đầu cho những chuỗi tâm sự nối kết, ngỗn ngang.
- Kiều nghĩ đến thân phận mình để rồi “mình lại thương mình xót xa” Kiều xót xa cho chính bản thân mình.
- Mở đầu đoạn trích Nỗi Thương Mình là tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của Thúy Kiều phải nếm trải trong chốn lầu xanh của mụ Tú Bà:.
- “Biết bao bướm lả ong lơi, Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm..
- Bốn câu đầu của đoạn trích cho ta thấy rõ hình ảnh lối sống xô bồ, nhơ nhớp và thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ ở chốn lầu xanh.
- Nguyễn Du đã miêu tả thật sống động bức tranh sinh hoạt ở chốn lầu xanh bằng bút pháp ước lệ tượng trưng..
- Trong chốn lầu xanh ấy Kiều phải tiếp khách mua vui cho “biết bao” người mà nàng không thể nào nhớ đươc hay là đếm được, bởi lẻ một điều rằng hằng ngày.
- Kiêu tiếp khách làng chơi triền miên “suốt đêm, sớm đưa, tối tìm” những từ ngữ ấy đã cho ta thấy đươc sự nhộn nhịp của chốn lầu xanh, nơi mà Tú Bà ăn nên làm ra..
- chỉ chung cho loại khách làng chơi phong lưu Nguyễn Du cho thấy tình cảnh của Thúy Kiều tuy sống trong cảnh lầu xanh tưởng như thanh tao, phong nhã nhưng thực chất đó chỉ là giả tạo, hằng ngày Kiều phải làm công việc nhơ nhuốc, tiếp đủ các loại khách đến mua vui..
- Điều này cho ta thấy rõ hơn về nỗi bất hạnh và tình cảnh trớ trêu của Thúy Kiều.
- Bút pháp ước lệ giúp Nguyễn Du không tránh né số phận thực tế của Kiều mà vẫn giữ được chân dung cao đẹp của nàng.
- Qua đó ta thấy được thái độ trân trọng, cảm thông của tác giả đối với nhân vật..
- Ông đã tái hiện cái hoàn cảnh của Thúy Kiều bằng những sự đối lập nghiệt ngã: một bên là nước mắt Thúy Kiều – một bên là những cơn say, trận cười triền miên.
- Do vậy ở bốn câu thơ đầu, mặc dù chưa được miêu tả trực tiếp, người đọc vẫn thấy Kiều đang bị cuốn đi trong một cơn lốc vô hình, bị buộc vào cảnh sống nhơ nhớp nơi nhà chứa.
- Hiện thực nghiệt ngã mà nhân vật phải trải qua, hé mở thân phận bẽ bàng của người kỹ nữ.
- Nguyễn Du đã mỹ lệ hóa cho cảnh sống ấy bằng một thứ ngôn ngữ ước lệ rất tài tình: ước lệ theo thành ngữ dân gian, ước lệ theo điển tích làm cho sự hồi tưởng kiếp sống đớn đau của Kiều trở nên tao nhã hơn.
- Bởi vì chỉ có hồi tưởng mới diễn tả hết sức sống chân thật của nội tâm nhân vật, mới thể hiện đúng nỗi đau, mới nổi bật được phẩm giá và sự chịu đựng giày vò đáng thương của nhân vật.
- Đằng sau những câu thơ ấy là tấm lòng cảm thông, trân trọng mà tác giả dành cho Thúy Kiều..
- Bốn câu thơ đầu đã đặt ra một tình thế của tâm trạng.
- Ở lầu xanh có nhiều kĩ nữ, họ có thể bình thản coi việc làm của mình rất đỗi bình thường , trớ trêu thay Kiều lại có một nhân phẩm quá đỗi cao đẹp, một tâm hồn trong trắng, một bông hoa từ cảnh sống “êm đềm trướng rủ màn che” bỗng nhiên bị ném vào bùn nhơ,.
- hai câu tiếp nói về tâm trạng của Kiều trong những ngày tủi nhục, nỗi ê chề, sự ép buộc, đày đọa mà Kiều phải chịu đựng:.
- “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh Giật mình mình lại thương mình xót xa”.
- Ở nơi lầu xanh đầy “cuộc say, trận cười” thì chỉ “khi tỉnh rượu lúc tàn canh”.
- Nhịp thơ có sự thay đổi giữa hai câu thơ trên từ nhịp 3/3 chuyển sang nhịp 2/4/2.
- Hai chữ “giật mình” kết hợp với cách ngắt nhịp ấy đã diễn tả sự biến đổi đột ngột trong tâm hồn Kiều.
- Nàng bàng hoàng đau xót trước thực tại phủ phàng và trơ trọi chỉ có một mình nàng tự xót xa, đau đớn cho chính số phận bi thương, đoạn trường của mình..
- Kiều giật mình vì nhận ra sự tàn phá thảm hại về thể xác và phẩm cách của mình ở chốn lầu xanh, sự cô đơn lẻ loi của mình và sự yếu đuối bất lực của mình trước bao nhiêu sự xấu xa, cạm bẫy đang bủa vây mình mà ko thể chống đỡ..
- Điệp từ “mình’’ lặp lại ba lần trong một câu thơ như tiếng nấc nghẹn ngào, tha thiết của Thúy Kiều ý thức được về phẩm giá, nhân cách, quyền sống bản thân đó cũng là ý thức cá nhân và quyền sống của con người trong lịch sử phong kiến mà Nguyễn Du muốn truyền tải đến người đọc..
- Đối với hai câu trên với nhịp thơ đầy nổi tủi nhục của Kiều thì những câu tiếp theo sau là những hồi ức dội về, hồi ức tươi sáng va đập thực tại tăm tối đọa đày:.
- Phép đối lập như một biện pháp nghệ thuật chủ yếu toàn đoạn trích và nhất là trong hai câu này càng tăng thêm giá trị biểu cảm.
- Chính vì điều này đã làm vết thương của Kiều nhức nhối, đau đớn như đào sâu thêm vào nỗi xót xa, tê tái của Kiều..
- Quá khứ hiện về đối lập với thực tại một cách khốc liệt, Kiều hồi tưởng lại những tháng năm “êm đềm trướng rũ màn che” thì lập tức thực tại phũ phàng lại hiện lên rõ nét hơn gấp bội, từ “phong gấm” diễn tả một sự bình yên, êm đềm trong quá khứ đối lập gay gắt với từ “tan tác” trong câu thơ nói về hiện tại như cái thực trạng phũ phàng bao trùm vùi chôn quá khứ êm đẹp.
- Cụm từ “bướm chán ong chường” và “dày gió dạn sương” là nét sáng tạo về cách dùng từ của Nguyễn Du, nhấn mạnh có ý so sánh theo mức độ tăng tiến cho ta thấy sự vùi dập, chà đạp mà Kiều phải gánh chịu.
- Các câu hỏi tu từ ở đây đc ND sử dụng nhằm làm rõ hơn sự đau đớn, ê chề của Kiều trước thực tại phủ phàng, tàn nhẫn..
- Hai câu thơ day dứt một tiếng thở dài tuyệt vong của một cô gái vốn tài sắc hơn người, khát khao hạnh phúc nhưng bậy giờ đã chán ngán tất cả:.
- Sống trong cảnh lầu xanh suốt ngày phải mua vui cho người khác hành hạ bản thân mình, lặp đi lặp lại hằng ngày ai cũng sẽ thấy chán chường muốn bỏ bê tất cả và Kiều cũng vậy.
- Sự đối lập giữa người – khách làng chơi (số nhiều) với chính mình – Kiều (số ít) như thể hiện tột cùng nỗi cô đơn của nàng.
- Từ ”xuân” ở đây ý chỉ niềm vui được hưởng hạnh phúc lứa đôi nhưng với Thúy Kiều sống làm vợ.
- Từ ”mặc” ở đây lại chỉ sự bất lực, mặc cho mọi thứ muốn tới đâu thì tới, dằn vặt nặng nề đay nghiến của Thúy Kiều nhưng không làm sao khác được..
- Đòi phen nét vẽ câu thơ.
- Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp hiện lên, có đủ cả: phong – hoa – tuyết – nguyệt, cảnh đẹp bốn mùa hội tụ vào nơi đây, gió xuân vi vu thổi, hoa hạ đua nhau khoe sắc ngát hương, trăng thu sáng vằng vặc, tuyết đông phủ kín cả lầu tất cả đều rất thực, rất sinh động như vẽ nên bức tranh đầy màu sắc, âm thanh của lầu xanh và trong đó có đủ những thú vui của con người: cầm – kì – thi – họa càng tô điểm cho bức tranh ấy thêm phần nhộn nhịp, sống động hơn bao giờ hết.
- Đoạn thơ vì thế đồng thời hướng vào tâm trạng Kiều: Kiều luôn phải tách mình thành hai nửa: một con người bề ngoài vui gượng, giả tạo và một con người thực, sống để xót xa mỗi lúc canh tàn..
- Ý thức về nhân phẩm một khi trỗi dậy là lại bị giày xéo, khiến nàng không nguôi bẽ bàng, nhục nhã về thân phận.
- Hai từ “đòi phen” được lặp lại trong tám câu thơ.
- càng thể hiện rõ hơn đó là một nỗi đau thường trực, chưa lúc nào thôi dằn vặt Kiều..
- Nỗi sầu của Kiều lan tỏa sang cảnh vật.
- “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
- Bằng sự thông cảm lạ lùng, và bằng tài năng kì diệu, Nguyễn Du đã viết nên hai câu thơ hay nhất giữa ngoại cảnh và tâm cảnh, giữa cảnh và tình.
- Từ một trường hợp cụ thể, thơ Nguyễn Du đã vươn tới tầm phổ quát, trở thành chân lí của mọi thời.
- Có thể nói hai câu thơ là đỉnh điểm của đoạn trích vì nó gột tả được sâu sắc hơn bao giờ hết nội tâm của nhân vật từ đó lan tỏa sang cảnh vật một cách thật tự nhiên và hợp lí.
- Nỗi buồn của Thúy Kiều cứ dâng lên, như sóng cồn triền miên không bao giờ dứt, nó cứ khuấy động bên trong sâu thẳm con người Kiều để rồi đến một lúc nào đó, tức nước vỡ bờ, nó dâng lên cuồn cuộn đánh động vào nỗi lòng, cảm xúc của Thúy Kiều, khiến cho mọi vật qua cái nhìn của nàng đều trở nên u buồn, tăm tối, nhuộm màu tang thương..
- Hai câu thơ cuối là nỗi lòng của Thúy Kiều được Nguyễn Du thể hiện một cách tinh tế, độc đáo mà tâm sự này, tâm trạng này, Kiều của Thanh Tâm tài nhân không hề có được.
- Từ “vui gượng” nói lên tất cả sự lạc lõng, cô độc cũng là sự mâu thuẫn, bế tắc không lối thoát của Kiều trước hoàn cảnh.
- Giữa chốn lầu xanh mà đồng tiền lên ngôi, có bao kẻ đến rồi đi, cái còn lại sau cùng với Kiều chỉ là sự rã rời, đau đớn cả về thể xác và tâm hồn thì làm gì có ai là tri kỉ, có ai để.
- Một lần nữa ngôn ngữ nửa trực tiếp lại khiến cho câu thơ có những lớp nghĩa sâu sắc kết hợp câu hỏi tu từ đầy sót xa cay đắng cho thấy.
- phẩm chất tốt đẹp của Thúy Kiều giàu lòng tự trọng, coi trọng phẩm giá và muốn sống một cuộc sống bình yên, trong sạch..
- Đoạn trích thể hiện khá hoàn chỉnh số phận, tính cách của Thúy Kiều.
- Thể hiện tập trung tư tưởng nhân văn của tác giả: cảm thương trước bi kịch của Kiều, khẳng định nhân cách đẹp đẽ của nàng và khẳng định sự ý thức về nhân phẩm và sự ý thức cá nhân.Thể hiện nỗi thương mình của Thúy Kiều, Nguyễn Du cũng thể hiện được nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật với ngôn ngữ nửa trực tiếp, lời tác giả và nhân vật như hòa vào nhau tạo nên sự đồng cảm giữa tác giả-nhân vật- người đọc..
- Truyện Kiều là một kiệt tác văn học mà Nguyễn Du đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam.
- Truyện Kiều không chỉ nổi tiếng về ý nghĩa truyện được thể hiện qua cuộc đời các nhân vật mà còn được đánh giá cao về giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
- Đoạn trích Nỗi thương mình kể về nỗi đau đớn tủi nhục trong quãng đời của Kiều..
- dập đầu máu sa", Kiều đau đớn kêu lên: "Thên lươn bao quản lấm đầu – Chút lòng trịnh bạch từ sau xin chừa".
- Bà Tú đã đẩy Kiều vào chốn lầu xanh từ đó.
- Đoạn trích Nỗi thương mình đã thể hiện một cách xúc động về nỗi đau đớn tủi nhục thương thân xót phận và ý thức về nhân phẩm của Thúy Kiều bị ép, bị đẩy vào vũng bùn tanh hôi trong xã hội lúc bấy giờ.
- Đây là cảnh Kiều phải nếm trải trong chốn lầu xanh của mụ Tú Bà:.
- Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm Dập dìu lá gió cành chim.
- là không đếm được, tính được, không nhớ hết được những khách hàng Kiều phải phục vụ.
- Kiều phải tiếp khách làng chơi triền miên: "đầy tháng suốt đêm sớm đưa tối tìm".
- Phải sống trong cảnh "Cuộc vui đầy tháng trận cười suốt đêm".
- Nguyễn Du đã sử dụng tài tình các ẩn dụ: "Bướm lả ong lơi cuộc say trận cười", các thi liệu, điển tích:.
- "lá gió cành chim", Tống Ngọc, Trường Khanh để diễn tả hiện thực chốn lầu xanh ngày xưa ấy.
- Bốn câu thơ trên đã miêu tả chi tiết về cuộc sống của những thân phận phụ nữ ở chốn lầu xanh.
- Ở lầu xanh có nhiều kĩ nữ, họ có thể bình thản coi việc làm của mình rất đỗi bình thường, trớ trêu thay Kiều lại có một nhân phẩm quá đỗi cao đẹp, một tâm hồn trong trắng, một bông hoa từ cảnh sống “êm đềm trướng rủ màn che”.
- Vậy nên, hai câu tiếp đã cho thấy tâm trạng của Kiều trong những ngày tủi nhục, nỗi ê chề, sự ép buộc, đày đọa mà Kiều phải chịu đựng:.
- Những câu thơ tiếp theo thể hiện tâm trạng với những ưu phiền của nàng Kiều khi phải sống trong cảnh dơ bẩn ấy.
- Các từ ngữ: "giật mình', "thương mình xót xa",.
- chứa đầy tâm trạng, "tâm trạng đâu khổ".
- Các điệp ngữ, so sánh ẩn dụ và nghệ thuật tương phản đã nói lên nỗi xót xa đau đớn của Thúy Kiều sau những tháng ngày "bướm lả ong lơi":.
- Tác giả đã sử dụng các từ ngữ có tính minh họa rất sắc sảo "khi sao giờ sao", tiếp theo lại viết: "mặt sao thân sao", lời cảm thán cất lên tê buốt, như những nhát dao cứ cứa vào tim gan vô cùng đau đớn:.
- Lúc nào Kiều cũng tự ý thức về nhân phẩm của mình.
- đã thể hiện rõ ý thức ấy, đó là tâm hồn thanh cao trong sạch:.
- Đối với khách làng chơi, những phong lưu "quen thói bóc rời": như Thúc Sinh thì chốn lầu xanh, cõi yên hoa là cảnh thần tiên, là cảnh rộng truy hoan:.
- Trong chốn lầu xanh đó, cuộc sống của nàng Kiều không hề thiếu thốn điều gì..
- Chốn lầu xanh dơ bẩn kia không chỉ có phong, hoa, tuyết, nguyệt, mà còn có cầm, kì, thi, họa, là môn nghệ thuật mà nàng Kiều say mê.
- "Đòi phen nét vẽ câu thơ.
- "Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?"..
- Phải nói rằng Nguyễn Du có một tài năng phi thường và một tình thương rộng lớn Nguyễn Du mới có thể viết lên hai câu thơ hay nhất về mối liên hệ tương đồng giữa ngoại cảnh và tâm cảnh, giữa cảnh và tình trong văn chương Việt Nam từ trước đến nay.
- Giữa chốn lầu xanh ồn ã ngựa xe, Kiều vẫn cảm thấy cô đơn, buồn tủi vì nàng tự ý thức nhân phẩm của mình, nàng nhận thấy cái chốn bẩn thỉu đó không phải là nơi giành cho nàng.
- nên nàng sống trong tâm trạng "vui gượng".
- Đó là tâm trạng của một giai nhân "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn", một phẩm chất cao đẹp đáng trân trọng ở nàng Kiều..
- Cấu trúc tứ bình (phong, hoa, tuyết, nguyệt, cầm, kì, thi, họa) với nghệ thuật tương phản và sử dụng câu hỏi tu từ, nhà thơ đã làm nổi bật tâm trạng đau khổ, tủi nhục, cô đơn của người con gái tài sắc đang vùng vẫy chống chọi lại cảnh đời trụy lạc.
- Ý thức cao về nhân cách, nhân phẩm của Kiều đã được nhà thơ thiên tài Nguyễn Du cảm thông và trân trọng.
- Những vần thơ đẹp đã làm tôn lên giá trị nhân bản đoạn thơ "Nỗi thương mình".
- Vì thế sau 15 năm lưu lạc, Kiều phải trải qua "than lâu hai lượt", nhưng Kim Trọng càng hiểu nàng hơn ai hết:.
- Đoạn thơ thể hiện được cuộc sống của nàng Kiều ở chốn lầu xanh và tâm trạng cô đơn buồn tủi của nàng.
- Với ngoài bút sắc sảo, tài tình nhà thơ đã cho người đọc thấy được phẩm chất đáng trân trọng của Kiều