« Home « Kết quả tìm kiếm

PHÂN TÍCH LỢI THẾ CẠNH TRANH NGHỀ DỆT THỔ CẨM AN GIANG THEO PHƯƠNG PHÁP PACA


Tóm tắt Xem thử

- PHÂN TÍCH LỢI THẾ CẠNH TRANH NGHỀ DỆT THỔ CẨM AN GIANG THEO PHƯƠNG PHÁP PACA.
- Mục tiêu của nghiên cứu nhằm phân tích thực trạng sản xuất và lợi thế cạnh tranh của nghề dệt thổ cẩm An Giang thông qua các công cụ phân tích như khung sinh kế và PACA..
- Qua khảo sát 22 sơ sở dệt thổ cẩm tại An Giang, nghiên cứu đã phát hiện một số điểm sau: nghề dệt thổ cẩm hình thành khá lâu, thiết bị sản xuất đơn giản, chi phí đầu tư thấp, lao động tham gia chủ yếu là nữ, nguyên nhân chính tham gia ngành do tính kế thừa.
- Hơn nữa, nghề dệt thổ cẩm có một số điểm lợi thế cạnh tranh đó là sử dụng nguồn tơ thiên nhiên, sản phẩm thể hiện nét văn hóa bản địa.
- Tuy nhiên, một số điểm bất lợi thế đó là thị trường đầu ra hạn chế, phụ thuộc ngành du lịch và tính thời vụ, bị thay thế bởi sản phẩm công nghiệp, khâu xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm còn hạn chế..
- Từ khóa: nghề dệt thổ cẩm, lợi thế cạnh tranh.
- Ví dụ: hoạt động đan đát lục bình ở Đồng Tháp, bánh pía, lạp xưởng ở Sóc Trăng, dệt chiếu, thảm ở Trà Vinh, đường thốt nốt, kẹo dừa Bến Tre, mây tre đan ở Cần Thơ, gốm đỏ ở Vĩnh Long, dệt thổ cẩm ở An Giang..
- Tuy nhiên, nguồn lực của hộ sản xuất tương đối hạn chế do đó sẽ xuất hiện sự cạnh tranh trong việc phân bổ nguồn lực giữa hoạt động ngành nghề và hoạt động khác vì liên quan đến chi phí cơ hội của nông hộ..
- Vì vậy, việc phân tích lợi thế cạnh tranh ngành nghề truyền thống là hết sức cần thiết nhằm cung cấp thông tin thực tiễn, dự báo về tính khả thi và bền vững của các hoạt động ngành nghề.
- Do đó, trong nghiên cứu này, tác giả tập trung làm rõ hai mục tiêu: (i) mô tả thực trạng phát triển nghề dệt thổ cẩm và (ii) xác định lợi thế cạnh tranh của ngành nghề dệt thổ cẩm An Giang theo phương pháp PACA 1.
- Do đặc điểm sản xuất của các ngành nghề truyền thống thường được tổ chức sản xuất tập trung tại một địa phương (ấp, xã) nên việc chọn điểm khảo sát cũng mang tính đại diện cao.
- Cụ thể, đối với nghề dệt thổ cẩm chủ yếu tập trung tại hai huyện Tân Châu và Tịnh Biên tỉnh An Giang..
- Hộ tham gia ngành nghề: Đề tài tiến hành khảo sát và phỏng vấn trực tiếp 22 hộ dệt thổ cẩm tại An Giang.
- Nội dung thu thập từ đối tượng này chủ yếu liên quan đến thực trạng sản xuất của hộ về qui mô, nguồn lực sản xuất, thị trường đầu vào và đầu ra, và ảnh hưởng của các chính sách, tổ chức nghề nghiệp tại địa phương..
- Cán bộ thuộc các tổ chức nghề nghiệp (Hợp tác xã): nhóm nghiên cứu thu thập những thông tin liên quan đến xu hướng phát triển ngành, những hoạt động thường niên hỗ trợ các cơ sở sản xuất..
- Bởi vì, đây là một tập hợp các công cụ để dự báo lợi thế và bất lợi thế cạnh tranh về ngành hàng của địa phương nào đó.
- Mặc dù là nghề truyền thống, nhưng kết quả khảo sát 22 hộ tham gia nghề dệt thổ cẩm cho thấy có đến 77% hộ vừa tham gia nghề dệt, vừa tham gia các hoạt động khác như nông nghiệp, phi nông nghiệp và chỉ có 23% hộ chuyên nghề dệt thổ cẩm.
- Theo anh Mohamad – Chủ nhiệm HTX Châu Giang, phần lớn các hộ đều có đất canh tác, do đó họ tham gia nghề dệt thổ cầm nhằm mục đích bảo tồn nền văn hoá.
- Tuy nhiên, ở xã Văn Giáo, Tịnh Biên thì hoạt động của nghề dệt thổ cẩm thể hiện sự sôi động hơn.
- Đồng thời, nghề dệt thổ cẩm đóng góp quan trọng đối với thu nhập của hộ gia đình..
- 3.1 Tổ chức sản xuất.
- Qua kết quả khảo sát 22 hộ tham gia nghề dệt thổ cẩm tại xã Châu Phong và Văn Giáo cho thấy, hộ tham gia nghề dệt dưới 3 hình thức chính, bao gồm: gia công cho HTX, tự sản xuất và tự tiêu thụ, và hình thức kết hợp hai dạng trên.
- Hình thức tổ chức sản xuất phụ thuộc vào thị trường tiêu thụ, giá cả và điều kiện về mẫu mã sản phẩm.
- Từ đó, hộ sản xuất dựa vào khả năng của mình và sẽ lựa chọn hình thức sản xuất thích hợp trong mỗi thời điểm nhất định..
- Bảng 1: Hình thức tổ chức sản xuất của hộ Đvt:.
- Tự sản xuất và tự bán.
- 3.2 Sử dụng nguồn lực sản xuất 3.2.1 Lao động.
- Tuy nhiên, đối với những hộ Khơme đa phần chỉ một người làm và hầu hết là phụ nữ, họ phụ trách tất cả các công đoạn trong quá trình sản xuất.
- Theo theo kết quả phỏng vấn các hộ sản xuất tại Châu Phong cho thấy giá lao động thuê ở địa phương tăng hàng năm khoảng 23,75%..
- Trong khi đó, giá thuê nhân công dệt thổ cẩm không đổi, cho nên chỉ có ½ đối tượng học nghề dệt theo nghề.
- Vốn cố định của các cơ sở sản xuất chủ yếu đầu tư vào các thiết bị sản xuất.
- Kết quả khảo sát cho thấy vốn cố định trung bình của mỗi hộ sản xuất từ 4 đến 5,6 triệu đồng.
- Vốn lưu động của hộ sản xuất chủ yếu để mua nguyên vật liệu như chỉ, cotton… Theo kết quả khảo sát, nguồn vốn lưu động của hộ sản xuất bình quân khoảng 2.700.000 đồng.
- Có đến 9 hộ trong tổng số 22 hộ được khảo sát thì nguồn vốn này được vay từ Quỹ hỗ trợ dân tộc, Hội phụ nữ, Ngân hàng chính sách xã hội… Nguồn vốn vay này chiếm khoảng 73% trong cơ cấu vốn lưu động của hộ sản xuất.
- Tuy nhiên, một số hộ sản xuất không vay vốn do các nguyên nhân sau:.
- 44% trong số họ cho rằng không muốn mở rộng sản xuất do không thuê mướn được thợ và lo ngại về thị trường tiêu thụ.
- 3.2.3 Thiết bị sản xuất.
- Qua quá trình quan sát tại hai địa bàn nghiên cứu cho thấy rằng khung dệt là thiết bị sản xuất chính của nghề dệt thổ cẩm.
- 3.3 Phân tích lợi thế cạnh tranh 3.3.1 Mô hình 5 động lực.
- Hầu như không có sự cạnh tranh về sản phẩm thổ cẩm giữa người Khơme và Chăm ở An Giang, do các nguyên nhân sau: thứ nhất, thiết kế hoa văn, mẫu mã khác nhau.
- thứ hai, chủng loại sản phẩm và khách hàng tiêu dùng cũng khác nhau..
- Theo quan sát tại các cửa hàng bán sản phẩm lưu niệm làm bằng thổ cẩm tại Cần Thơ cho thấy hầu hết các sản phẩm do các nhà sản xuất thổ cẩm ở Ninh Thuận, Bình Thuận phân phối.
- Khách hàng của các hộ dệt thổ cẩm được chia thành hai nhóm: khách hàng của hộ dệt thổ cẩm người Khơme và của người Chăm.
- Hộ dệt thổ cẩm của người Khơme: khách hàng của họ chủ yếu là người thu gom (chiếm 70.
- Những người thu gom ở địa sẽ mang sản phẩm đi phân phối lại cho các cửa hàng bán vải tại các địa phương có đồng bào dân tộc Khơme sinh sống như Kiên Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng… Ngoài ra, họ chỉ bán cho HTX khi nào HTX có nhận đơn đặt hàng từ các đối tác ờ TPHCM hoặc Hà Nội..
- Hộ dệt thổ cẩm của người Chăm: sản phẩm của họ được phân phối trực tiếp đến các cửa hàng bán sản phẩm lưu niệm, khách sạn, nơi vui chơi giải trí ở An Giang, Cần Thơ….
- Tuy nhiên, hạn chế của các hộ dệt thổ cẩm trong khâu tiêu thụ đó là chỉ sản xuất theo mẫu đặt hàng của khách hàng, họ chưa thực hiện những cuộc thăm dò, quan sát về nhu cầu, sở thích của người tiêu dùng về sản phẩm.
- Hơn nữa, sản phẩm còn đơn điệu, chưa tạo được giá trị gia tăng của sản phẩm như các sản phẩm thổ cẩm truyền thống của các nước như Malaysia, Thái Lan..
- Theo thông tin từ Phòng Kinh tế huyện Tân Châu, hiện nay huyện đang trình Tỉnh kế hoạch phát triển làng nghề dệt thổ cẩm.
- Nếu kế hoạch này được thực hiện thì các hộ dệt thổ cẩm người Chăm ở xã Châu Phong sẽ có ưu thế về vốn vay ưu đãi, được đào tạo về tay nghề, hỗ trợ về xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm.
- Dự báo có khoảng trên 200 hộ dệt thổ cẩm tham gia (nguồn: Website tỉnh An Giang www.angiang.gov.vn) trong chương trình đưa làng nghề trở thành trung tâm du lịch cộng đồng.
- Điều này sẽ tạo nên sự cạnh tranh ngay trong bản thân các hộ sản xuất về thu hút lao động có tay nghề, mẫu mã với nhau, tuy nhiên việc cạnh tranh này sẽ làm cho làng nghề ngày càng phát triển.
- Những người có tay nghề cao có cơ hội được phát triển, các cơ sở mới và cũ cần biết cách liên kết chung về chiến lược, cách quảng bá, tạo uy tín sản phẩm… để tạo sự phát triển chung cho làng nghề..
- d) Sản phẩm thay thế.
- Theo nhận định của anh Mohamad: phần lớn thế hệ trẻ người dân tộc bây giờ đi học, đi làm nên họ hiếm khi sử dụng trang phục truyền thống mà chủ yếu dùng quần jean, áo sơmi, vải công nghiệp,… Hơn nữa, phụ nữ Chăm ít dùng thổ cẩm như xưa mà thay vào đó là dùng các loại vải khác có giá thành rẻ hơn như hiện nay.
- Vì vậy, các sản phẩm thổ cẩm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của người Chăm cũng dần dần bị thay thế..
- Các sản phẩm thổ cẩm nhập từ nước ngoài hoặc các loại vải tương tự như thổ cẩm được dệt công nghiệp với giá bán rẻ hơn thổ cẩm dệt thủ công.
- Điều này cũng ảnh hưởng làm cho vải thổ cẩm cũng bị thay thế..
- Hình 1: Mô hình 5 động lực của nghề dệt thổ cẩm An Giang.
- a) Chiến lược kinh doanh và cạnh tranh.
- Dựa trên các lợi thế cạnh tranh về sản phẩm gắn liền với những đặc điểm văn hóa, dân tộc.
- Đồng thời, kết hợp với các yếu tố địa phương như chương trình khuyến công và các thế mạnh về danh lam thắng cảnh đã tạo nên những sản phẩm thổ cẩm phục vụ cho đời sống và du lịch..
- Sự cạnh tranh tay nghề giữa các nghệ nhân trong ngành sẽ góp phần thúc đẩy họ tạo ra những sản phẩm ngày càng đạt chất lượng cao hơn về mẫu mã, cũng như làm tăng giá trị sản phẩm..
- Sản phẩm thay thế.
- Các sản phẩm dệt công nghiệp có giá thành thấp, mẫu mã đa dạng phù hợp với đời sống và công việc..
- Nhiều cơ sở dệt thổ cẩm hoạt động trở lại khi khôi phục làng nghề..
- Đối thủ cạnh tranh.
- Cạnh tranh sản phẩm thổ cẩm với các địa phương khác Ninh Thuận, Bình Thuận, Hà Tây….
- Cạnh tranh với các sản phẩm làm bằng thổ cẩm của các nước.
- Mẫu mã sản phẩm chưa đa dạng..
- Khách hàng - Sản phẩm thổ cẩm chỉ phục vụ một số khách hàng đặc thù như đồng bào dân tộc Chăm, Khơme, hoặc du khách - Chưa có điều kiện nghiên cứu thị trường.
- Tuy nhiên, hiện nay nghề dệt thổ cẩm An Giang hoạt động riêng rẻ giữa hai dân tộc Chăm và Khơme, cho nên chưa tạo được lợi thế cạnh tranh dựa trên sự liên kết các hộ sản xuất.
- Do đó, các đơn đặt hàng với số lượng lớn thì không đủ thời gian và nhân lực để sản xuất..
- Một số ngành phụ trợ có liên quan đến nghề dệt thổ cẩm bao gồm ngành sản xuất tơ, nhuộm, thời trang và kể ngành du lịch.
- Trong đó, ngành du lịch đóng vai trò quan trọng đối với khâu tiêu thụ sản phẩm.
- bởi vì, khách hàng nội địa ngày càng chuyển dần sang sử dụng các sản phẩm vải công nghiệp..
- Kế hoạch hỗ trợ giới thiệu sản phẩm thổ cẩm của địa phương chưa nhiều, đa số là tham gia các kỳ hội chợ, các hoạt động xúac tiện thương mại và quảng bá sản phẩm thổ cẩm An Giang chưa mạnh so với các địa phương khác như Ninh Thuận, Bình Thuận….
- Hiện nay, các cơ quan ban ngành tỉnh An giang đang xây dựng chương trình khôi phục và phát triển làng nghề dệt thổ cẩm.
- Hơn nữa, chương trình khuyến công và các hoạt động hỗ trợ đồng bào dân tộc cũng góp phần thu hút người dân tham gia trở lại nghề dệt thổ cẩm truyền thống..
- Tuy nhiên, khâu xúc tiến thương mại và quảng bá sản phẩm trên các phương tiện truyền thông như internet còn hạn chế nên sản phẩn thổ cẩm An Giang ít được người tiêu dùng biết đến như sản phẩm thổ cẩm của các địa phương khác..
- Hiện nay, sản phẩm thổ cẩm chủ yếu phục vụ một số khách hàng đặc thù.
- Hơn nữa, ngoài sự phụ thuộc vào ngành du lịch, sản phẩm thổ cẩm gần đây còn phục vụ cho ngành thiết kế thời trang nhằm tôn vinh vẻ đẹp dựa trên sự kết hợp giá trị truyền thống và hiện đại..
- Hình 2: Mô hình kim cương của nghề dệt thổ cẩm An Giang.
- Qua phân tích thực trạng sản xuất và đánh giá lợi thế cạnh tranh của 22 hộ dệt thổ cầm tại An Giang, kết quả của nghiên cứu được tóm lược ở những điểm sau: sản phẩm truyền thống thể hiện nét văn hóa bản địa và dân tộc.
- thiết bị sản xuất đơn giản, đầu tư thấp.
- Tuy nhiên, nghề dệt thổ cẩm vẫn còn tồn tại một số bất lợi thế đó là: thị trường tiêu thụ hạn chế và phụ thuộc vào ngành du lịch.
- năng lực quản lý và thiết kế sản phẩm còn đơn giản.
- bị thay thế bởi các sản phẩm công nghiệp..
- Làng nghề Đồng bằng sông Cửu Long: Liên kết để phát triển.
- Lợi thế cạnh tranh.
- Lợi thế: Sản phẩm làm thủ công, thể hiện nét văn hóa, dân tộc..
- Bất lợi: Ít có sự liên kết trong sản xuất giữa hai dân tộc Chăm và Khơme..
- Sản xuất theo đơn đặt hàng, ít chú ý đến khâu thiết kế mẫu mã, hoa văn cũng như sản phẩm.
- Sản phẩm thổ cẩm kết hợp được sử dụng trong thiết kế thời trang..
- Bất lợi: Phụ thuộc vào sự phát triển của ngành du lịch, xa nguồn nguyên liệu, cạnh tranh trong việc thu hút lao động..
- PACA – Đánh giá lợi thế cạnh tranh với sự tham gia của nhiều đối tượng.
- Sản phẩm làng nghề của Hà Tây trong bức tranh xuất khẩu hàng thủ công đỏ Việt Nam.
- Lịch sử hình thành và phát triển làng nghề.
- Viện phát triển bền vững ở Việt Nam (04/2006).
- Vietnam Trade Fair-Mạng chào bán sản phẩm trực tuyến