« Home « Kết quả tìm kiếm

Phân tích năng suất nghiên cứu khoa học của giảng viên nữ tại Trường Đại học Cần Thơ


Tóm tắt Xem thử

- PHÂN TÍCH NĂNG SUẤT NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN NỮ TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ.
- Năng suất nghiên cứu khoa học, đề tài nghiên cứu, xuất bản, giảng viên nữ.
- Hoạt động nghiên cứu khoa học và các yếu tố tác động đến năng suất nghiên cứu khoa học ngày càng thu hút sự quan tâm không những đối với nhà khoa học, mà còn đối với nhà quản lý từ các tổ chức giáo dục.
- Bài viết này dựa vào cuộc khảo sát từ 93 giảng viên nữ tại các khoa thuộc Trường Đại học Cần Thơ nhằm tìm kiếm những bằng chứng nghiên cứu để giải thích các giả thuyết liên quan đến sự chênh lệch năng suất nghiên cứu khoa học của giảng viên tại Trường.
- Kết quả phân tích nhấn mạnh vào các yếu tố có tác động tích cực đến năng suất nghiên cứu khoa học như trình độ chuyên môn của cá nhân giảng viên cũng như của đồng nghiệp trong bộ môn và sự cộng tác.
- Tuy nhiên, các yếu tố như gia đình (con cái), cơ chế chính sách, năng lực chuyên môn và sở thích có ảnh hưởng như một rào cản làm giảm năng suất nghiên cứu khoa học của giảng viên nữ..
- Tương tự như các lĩnh vực khác trong xã hội, sự chênh lệch về giới trong hoạt động nghiên cứu khoa học đã và đang xảy ra.
- và kể cả giải thưởng nghiên cứu khoa học (Nakhaie, 2002.
- Có thể nhận thấy rằng sự mất cân đối trong hoạt động nghiên cứu khoa học giữa nam và nữ tại các cơ sở nghiên cứu và đào tạo đại học đã và đang diễn ra.
- Đối với trường hợp của Trường Đại học Cần Thơ cũng không ngoại lệ, cụ thể là hoạt động tham gia nghiên cứu khoa học của giảng viên nữ có phần khiêm tốn.
- Trong nghiên cứu gần đây, tác giả đã xây dựng khung phân tích và các giả thuyết nhằm giải thích sự tác động của yếu tố đến năng suất nghiên cứu khoa học của giảng viên tại Trường Đại học Cần Thơ.
- Vì vậy, mục tiêu trọng tâm của bài viết này là phân tích sự tác động của hai nhóm yếu tố trên đến hoạt động nghiên cứu khoa học và năng suất nghiên cứu khoa học của giảng viên nữ tại Trường Đại học Cần Thơ..
- 2 NĂNG SUẤT NGHIÊN CỨU KHOA HỌC: TIÊU CHÍ VÀ KHUNG PHÂN TÍCH.
- Symonds và ctv (2006), hoạt động nghiên cứu khoa học được thể hiện dưới dạng các hình thức như sau: (i) thực hiện nghiên cứu khoa học, (ii) xuất bản công trình nghiên cứu, (iii) bằng sáng chế khoa học, và (iv) giải thưởng nghiên cứu khoa học.
- Năng suất nghiên cứu khoa học đối với nhà khoa học sẽ được xác định dựa vào kết quả của những hoạt động trên trong một khoảng thời gian nhất định.
- Ví dụ, như Hirsch (2005) cho rằng tiêu chí để đo lường kết quả nghiên cứu khoa học của nhà khoa học được dựa vào tỷ lệ trích dẫn đối với công trình khoa học được xuất bản của cá nhân đó.
- Tuy nhiên, thông thường, đa số các nhà nghiên cứu có sự thống nhất và chọn số lượng công trình khoa học được xuất bản như là tiêu chí đo lường năng suất nghiên cứu khoa học (trong số đó như Yu Xie &.
- Vì vậy, tiêu chí phản ánh năng suất nghiên cứu khoa học trong bài viết được thể hiện dưới dạng: số lượng đề tài nghiên cứu khoa học được thực hiện và số lượng bài báo được xuất bản trong 3 năm gần đây và bình quân trong một năm..
- Nhìn chung, hoạt động nghiên cứu khoa học nói chung và năng suất nghiên cứu khoa học của giảng viên nữ từ lâu thu hút sự chú ý khai thác không những đối với nhà nghiên cứu, mà còn đối với nhà quản lý nhằm mục đích tìm kiếm các giải pháp và chính sách hỗ trợ, khuyến khích sự tham gia của giảng viên nữ vào hoạt động chuyên môn này.
- Các nghiên cứu trong và ngoài nước đã phân tích và phát hiện các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động và năng suất nghiên cứu khoa học của giảng viên nữ.
- Hôn nhân và con cái: Trong nghiên cứu về sự tham gia nghiên cứu khoa học của một vài tác giả (Yue Xie &.
- Stack, 2004) đã đưa thêm một số yếu tố khác – yếu tố kiểm soát - vào phân tích để kiểm định mối quan hệ giữa yếu tố gia đình và năng suất nghiên cứu khoa học.
- Kết quả trên cũng chỉ ra rằng độ tuổi không những ảnh hưởng đến năng suất nghiên cứu khoa học, mà còn góp phần thu hẹp sự mất cân đối về năng suất nghiên cứu khoa học theo giới tính của nhà khoa học..
- Trình độ chuyên môn: Có ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động và năng suất nghiên cứu khoa học.
- Hay nói cách khác, những nhà khoa học với trình độ chuyên môn cao sẽ có nhiều cơ hội hơn trong hoạt động nghiên cứu khoa học so với những đồng nghiệp khác.
- Hình 1: Khung phân tích năng suất nghiên cứu khoa học của giảng viên nữ Đối với các yếu tố thuộc môi trường làm việc.
- của nhà khoa học, có nhiều bằng chứng nghiên cứu chỉ ra rằng lĩnh vực nghiên cứu khác nhau được xem như một trong những nhân tố đóng góp đến năng suất nghiên cứu khoa học.
- Cụ thể là, số lượng công trình nghiên cứu được xuất bản trong lĩnh vực khoa học xã hội thường ít hơn so với lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật (Fox, 1983).
- Đồng thời, môi trường nghiên cứu khoa học - cấp khoa hoặc bộ môn - có ảnh hưởng đến hoạt động nghiên cứu khoa học của cá nhân trong tổ chức đó.
- Bởi vì, hoạt động nghiên cứu khoa học đòi hỏi có sự cộng tác giữa các thành viên trong quá trình thực hiện..
- Phân bổ công việc (giảng dạy, nghiên cứu khoa học, và quản lý): công việc thông thường của nhà khoa học tại các viện, trường chủ yếu là giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
- ngoài ra, nhà khoa học còn kiêm nhiệm công tác quản lý.
- phân bổ thời gian giữa các hoạt động trên phần nào góp phần giải thích hiện tượng chênh lệch năng suất nghiên cứu khoa học giữa các nhà khoa học trong cùng đơn vị.
- Hay nói cách khác, năng suất nghiên cứu khoa học của cá nhân thường tăng dần trong những năm đầu sau khi hoàn thành chương trình sau đại học và sau đó giảm dần cho đến tuổi nghỉ hưu 1.
- Sự cộng tác: Từ rất lâu mối quan hệ giữa sự cộng tác và năng suất nghiên cứu khoa học đã được phát hiện và khẳng định tính tích cực của chúng..
- Điển hình như, Lotka (1926), Price và Beaver (1966) và gần hơn Kyvik và Teigen (1996) cho rằng sự cộng tác trong nghiên cứu khoa học một mặt nhằm nâng cao chất lượng công trình nghiên cứu thông qua chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm;.
- Qua lược khảo từ những kết quả nghiên cứu liên quan đến năng suất nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước, các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất nghiên cứu khoa học – số lượng đề tài nghiên cứu.
- khoa học và bài báo khoa học – của nhà khoa học nói chung và của giảng viên nữ nói riêng khá đa dạng và có tác động lẫn nhau.
- Vì vậy, trong phạm vi của nguồn dữ liệu thu thập từ giảng viên nữ tại các khoa thuộc Trường Đại học Cần Thơ, chúng tôi phân tích và giải thích năng suất nghiên cứu khoa học của giảng viên nữ dựa vào hai nhóm yếu tố chính: Đặc điểm cá nhân và môi trường làm việc, như trình bày ở Hình 1..
- (ii) khoa học nông nghiệp, thuỷ sản và công nghệ sinh học.
- và (iii) khoa học xã hội, kinh tế, chính trị và giáo dục.
- Với đặc điểm trên, có thể kỳ vọng đây là yếu tố quan trọng giải thích cho thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên nữ, bên cạnh những yếu tố khác như gia đình, trình độ chuyên môn,….
- Nghiên cứu sinh .
- Hơn nữa, theo nghiên cứu của McRae (2003) lưu ý rằng độ tuổi của con cái cũng có ảnh hưởng đến phân bổ thời gian cho hoạt động nghiên cứu khoa học.
- Kỳ vọng rằng yếu tố gia đình trên có ảnh hưởng đến năng suất nghiên cứu khoa học của giảng viên nữ..
- Kỳ vọng rằng lực lượng giảng viên này có nhiều hoạt động nghiên cứu khoa học hơn so với những đồng nghiệp khác..
- 4 NĂNG SUẤT NGHIÊN CỨU KHOA HỌC: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH.
- trong năm qua, phân bổ thời gian cho các hoạt động chuyên môn, mức độ nhận biết thông tin về nghiên cứu khoa học của trường, đơn vị, hoặc bộ môn, và sự cộng tác trong hoạt động nghiên cứu khoa học,… Thông tin chi tiết được trình bày ở Bảng 2..
- Điển hình như, giảng viên nữ làm việc tại các khoa thuộc lĩnh vực khoa học kỹ thuật nông nghiệp, tự nhiên và môi trường 2 (gọi tắt khoa học kỹ thuật) có số giờ chuyên môn dao động ở mức từ 500- 680 giờ/năm.
- TNTN, Khoa khoa học tự nhiên.
- Nghiên cứu KH .
- Kế đến dành cho hoạt động nghiên cứu khoa học tương ứng hơn 1/5 thời gian.
- Cụ thể là, các giảng viên nữ tại các đơn vị thuộc lĩnh vực khoa học xã hội dành từ 60-75% thời gian làm việc cho hoạt động giảng dạy và chỉ có 13-15%.
- cho hoạt động nghiên cứu khoa học.
- trong khi đó những đồng nghiệp của họ tại các đơn vị thuộc lĩnh vực khoa học kỹ thuật thể hiện một bức tranh ngược lại, đó là họ dành khoảng 41-63% thời gian làm việc cho hoạt động giảng dạy và sử dụng đến 24-37% thời gian cho hoạt động nghiên cứu khoa học.
- viên/giảng viên thấp nên giảng viên nói chung và giảng viên nữ nói riêng thuộc lĩnh vực khoa học kỹ thuật phân bổ nhiều thời gian cho hoạt động nghiên cứu khoa học nhiều hơn những đồng nghiệp nữ khác thuộc lĩnh vực khoa học xã hội.
- Trong đó, những giảng viên nữ thuộc lĩnh vực khoa học xã hội có cơ hội tham gia những công việc khác ngoài trường nhiều hơn so với những đồng nghiệp khác đang làm việc thuộc lĩnh vực khoa học kỹ thuật..
- Điều này cho thấy những giảng viên kiêm nhiệm vị trí tổ trưởng/phó tổ chuyên ngành sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển chuyên môn – giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
- đáng chú ý họ dành gần 62% thời gian cho hoạt động giảng dạy, thay vì phải dành nhiều thời gian hơn cho hoạt động nghiên cứu khoa học gắn liền với luận văn tốt nghiệp.
- Trong khi đó, những giảng viên nữ đang thực hiện nghiên cứu sinh cho thấy thực trạng tương đối phù hợp hơn, cụ thể là họ dành hơn 1/3 thời gian cho hoạt động nghiên cứu khoa học.
- Xuất phát từ thực tế trên, nếu như chương trình đào tạo cao học có điều kiện về việc xuất bản bài báo khoa học, kỳ vọng rằng học viên cao học sẽ đầu tư thời gian nhiều hơn cho hoạt động nghiên cứu khoa học.
- Nhìn chung, việc phân bổ thời gian cho hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên nữ có sự khác biệt liên quan đến trình độ chuyên môn với mức ý nghĩa thống kê 1%, trong đó những giảng viên đạt trình độ tiến sĩ trở lên có sự tập trung nhiều hơn cho hoạt động nghiên cứu khoa học so với những đồng nghiệp khác, mặc dù tổng số giờ chuyên môn của họ không cao..
- Ngoài ra, thông tin hoạt động nghiên cứu khoa học từ tổ chức (Trường, Khoa và Bộ môn) cho thấy thể hiện vai trò quan trọng và ảnh hưởng đến hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên nữ tại các đơn vị.
- Cụ thể là, hầu hết giảng viên nữ biết đến định hướng nghiên cứu khoa học của Trường, nhưng chỉ có 52% tìm hiểu chi tiết.
- Tuy nhiên, tỷ lệ biết đến và tìm hiểu định hướng nghiên cứu khoa học ở cấp Khoa của giảng viên nữ được cải thiện (chiếm 2/3 giảng viên được hỏi)..
- Do có chênh lệch khá lớn 3 về số lượng giảng viên và giảng viên đạt trình độ tiến sĩ ở cấp bộ môn giữa các đơn vị, cho nên tỷ lệ giảng viên đạt trình độ tiến sĩ của bộ môn sẽ được tính toán và sử dụng thay thế để phân tích tác động của chỉ tiêu đến năng suất nghiên cứu khoa học của giảng viên nữ trong bộ môn.
- Kết quả phân tích tỷ lệ giảng viên đạt trình độ tiến sĩ trở lên có tác động tích cực và ý nghĩa thống kê đến năng suất nghiên cứu khoa học của các thành viên – giảng viên nữ - trong bộ môn..
- 4.2 Năng suất nghiên cứu khoa học.
- Trong nội dung này, chúng ta tập trung phân tích thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học và năng suất nghiên cứu khoa học của giảng viên nữ tại các đơn vị trong Trường, thông qua sử dụng các.
- tiêu chí như số lượng đề tài nghiên cứu khoa học chủ trì hoặc tham gia theo các mốc thời gian và số lượng các dạng công trình khoa học được xuất bản..
- Trong số những giảng viên nữ tham gia khảo sát, có đến 41% giảng viên chưa từng chủ trì đề tài nghiên cứu khoa học, chủ yếu là giảng viên tại các đơn vị thuộc lĩnh vực khoa học xã hội.
- Hay nói cách khác, năng suất nghiên cứu khoa học (thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học) của giảng viên nữ tại các đơn vị có sự chênh lệch với ý nghĩa thống kê 5%.
- đáng lưu ý, năng suất nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực khoa học kỹ thuật có xu hướng cao hơn so với lĩnh vực khoa học xã hội.
- Nhìn chung, giảng viên nữ thuộc lĩnh vực khoa học kỹ thuật có cơ hội tham gia hoặc chủ trì đề tài nghiên cứu khoa học nhiều hơn, điển như giảng viên nữ thuộc Khoa nông nghiệp &.
- Bảng 3: Hoạt động và năng suất nghiên cứu khoa học của giảng viên nữ.
- TNTN K.SP K.Luật Đề tài nghiên cứu khoa học.
- Năng suất xuất bản công trình khoa học của giảng viên nữ bình quân nhiều hơn 1 bài/năm..
- Tương tự như kết quả của hoạt động thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học, giảng viên nữ thuộc lĩnh vực khoa học kỹ thuật vẫn thể hiện sự vượt trội về năng suất nghiên cứu khoa học - số lượng công trình xuất bản - so với những đồng nghiệp khác thuộc lĩnh vực khoa học xã hội.
- Kết quả phân tích cho thấy rằng thời gian sau khi hoàn thành chương trình sau đại học thể hiện tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê (mức 10%) đến năng suất nghiên cứu khoa học.
- nghiên cứu khoa học của giảng viên nữ có xu hướng giảm dần trong khoảng thời gian 2-5 năm sau khi hoàn thành chương trình học sau đại học, nhưng sau đó có xu hướng tăng dần và tăng mạnh trong khoảng thời gian sau đó (có dạng chữ U).
- Về sự cộng tác trong hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên nữ, kết quả phân tích cho thấy rằng trong số 3 giảng viên nữ tham gia khảo sát có đến 2 giảng viên có mời gọi sự cộng tác (chủ yếu từ đồng nghiệp) trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học.
- Kết quả của sự cộng tác thể hiện ý nghĩa tích cực (nhưng không có ý nghĩa thống kê ở mức 5%) đến năng suất nghiên cứu khoa học và đồng thời khẳng định những bằng chứng nghiên cứu trước đây của Lotka, 1926.
- Nguyên nhân của sự cộng tác trong nghiên cứu khoa học chủ yếu xuất phát từ mục đích hỗ trợ chuyên môn lẫn nhau và hướng dẫn sinh viên thực hiện luận văn (chiếm gần 50.
- Tóm lại, hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên nữ tại các đơn vị chịu tác động từ nhiều nguyên nhân, trong đó phần lớn do hoạt động giảng dạy (37% ý kiến), kế đến là yếu tố gia đình (29% ý kiến) và các yếu tố khác như công tác quản lý, kiêm nhiệm, hoặc không có sở thích nghiên cứu khoa học.
- Kết quả phân tích từ cuộc khảo sát 93 giảng viên nữ tại Trường đã khẳng định các giả thuyết đặt ra đối với trường hợp năng suất nghiên cứu khoa học của giảng viên nữ tại Trường Đại học Cần Thơ, cũng như làm phong phú thêm những.
- bằng chứng khoa học về năng suất nghiên cứu khoa học so với những nghiên cứu trước đây.
- Tóm lại, năng suất nghiên cứu khoa học của giảng viên nữ được giải thích bởi một số yếu tố nổi bật sau đây:.
- Thời gian chăm sóc con cái được xem như rào cản làm giảm năng suất nghiên cứu khoa học của giảng viên nữ.
- Tuy nhiên, kinh nghiệm làm việc và trình độ chuyên môn không những ảnh hưởng tích cực đến năng suất nghiên cứu khoa học cho bản thân giảng viên nữ.
- Sự chênh lệch năng suất nghiên cứu khoa học vẫn đang là thực trạng giữa các đơn vị thuộc Trường Đại học Cần Thơ.
- các khoa học thuộc lĩnh vực khoa học xã hội dường như yếu thế hơn trong hoạt động này.
- Đáng lưu ý, những học viên cao học dường như có năng suất nghiên cứu khoa học thấp hơn những đồng nghiệp của họ đang làm nghiên cứu sinh.
- Lực lượng giảng viên của bộ môn nói chung và giảng viên đạt trình độ tiến sĩ trở lên có ý nghĩa tích cực làm tăng năng suất nghiên cứu khoa học của giảng viên nữ, nó được xem như là kết quả của sự cộng tác trong hoạt động nghiên cứu khoa học..
- Đáng chú ý, giảng viên kiêm nhiệm tổ trưởng tổ chuyên ngành của bộ môn có vai trò quan trọng đóng góp làm tăng năng suất nghiên cứu khoa học..
- Phân bổ thời gian hoạt động chuyên môn giữa các hoạt động của giảng viên nữ mang tính “đánh đổi”, nghĩa là tập trung giảng dạy nhiều sẽ ảnh hưởng làm giảm năng suất nghiên cứu khoa học..
- Cuối cùng, hoạt động nghiên cứu khoa học đối với giảng viên nữ dường như chưa được họ quan tâm, điều này được thể hiện thông qua phân bổ thời gian cho hoạt động chuyên môn, cũng như công trình xuất bản (chủ yếu xuất bản trong nước và tại Tạp chí khoa học của Trường).
- Phụ nữ tham gia nghiên cứu khoa học: Khó khăn từ nhiều phía.
- Năng suất nghiên cứu khoa học: Xây dựng các giả thuyết đối với trường hợp của Trường Đại học Cần Thơ.
- Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 32(C), 25-35..
- Bình đẳng giới trong hoạt động nghiên cứu khoa học ở Việt Nam