« Home « Kết quả tìm kiếm

Sáng kiến kinh nghiệm - Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học môn Lịch sử 9


Tóm tắt Xem thử

- Do đó, bên cạnh ứng dụng công nghệ thong tin vào giảng dạy thì việc sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy và học là phương pháp tối ưu nhằm phát huy tính tích cực và khả năng tư duy của học sinh..
- Với đề tài này, tôi muốn tìm hiểu thực trạng dạy học lịch sử lớp 9 ra sao? Trên cơ sở đó tôi sử dụng phương pháp dạy học mới đó là “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học môn lịch sử lớp 9” theo hướng tích cực giúp cho giáo viên và học sinh yêu thích môn lịch sử và nâng cao hiểu biết về phương pháp dạy học mới để đưa chất lượng dạy học bộ môn có kết quả cao..
- Xây dựng cơ sở về lý luận dạy học lịch sử theo sử dụng bản đồ tư duy..
- Do xuất phát từ thực tế dạy và học môn Lịch sử của trường tôi nên đề tài này tôi chỉ nghiên cứu giới hạn ở học sinh lớp 9B, 9C trường THCS Hồng Thủy..
- Hoạt động dạy học bằng phương pháp “Lập bản đồ tư duy” (Tài nguyên dạy học Bộ GD&ĐT).
- Sách giáo khoa, sách giáo viên lịch sử lớp 9.
- Cơ sở khoa học về phương pháp dạy học theo bản đồ tư duy..
- BĐTD là công cụ đồ họa nối các hình ảnh có liên hệ với nhau vì vậy có thể vận dụng BĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương và giúp học sinh hiểu bài, nhớ lâu, nhớ sâu..
- Định hướng đổi mới phương pháp dạy học theo bản đồ tư duy..
- Đối với học sinh.
- BĐTD giúp học sinh học được phương pháp học: Việc rèn luyện phương pháp học cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học.
- Thực tế cho thấy một số học sinh học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, nhất là môn học thuộc như Lịch sử, các em này thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau.
- Phần lớn số học sinh này khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình.
- Sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học học sinh sẽ học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển được tư duy..
- Giúp học sinh học tập một cách tích cực: Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình, vì vậy việc sử dụng BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa sự tư duy và sáng tạo của học mình, từ đó nhớ bài lâu và hiểu bài sâu..
- Học sinh tự vẽ BĐTD có ưu điểm: Phát huy tối đa tính sáng tạo, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của mình, các em tự do chọn màu sắc (xanh, đỏ, vàng, tím.
- các em tự “sáng tác” nên trên mỗi BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng học sinh và BĐTD do các em tự thiết kế vì vậy các em yêu quí, trân trọng “tác phẩm” của mình..
- Đối với giáo viên.
- Bản đồ tư duy - phương pháp dạy học bằng cách sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết, với sự tư duy tích cực không chỉ tạo hứng thú trong học tập của học sinh mà còn góp phần đổi mới và làm phong phú các phương pháp giáo dục tích cực..
- Dạy học bằng BĐTD dành nhiều thời gian cho học sinh làm việc, chia sẻ với bạn bè, công việc của giáo viên đỡ vất vả nhiều so với cách dạy truyền thống..
- Dạy học bằng BĐTD giúp học sinh thuộc bài ngay tại lớp, nhớ nhanh, nhớ sâu, nhớ lâu và nhớ chính xác những nội dung bài học.
- Dạy học bằng BĐTD còn có tác dụng phân loại đối tượng học sinh: học sinh khá, giỏi phát huy được khả năng sáng tạo, lập BĐTD theo sự hiểu biết của mình hiểu bài, nhớ bài sâu và lâu.
- Trái lại học sinh học trung bình trở xuống khó tiếp cận vận dụng chậm, lười tư duy.
- Do đó dạy học theo BĐTD giáo viên cần dành thời gian hướng dẫn cho những đối tượng học sinh này nhiều hơn..
- Trên 30 bài báo khoa học cùng với 4 cuốn sách: “Dạy tốt- học tốt các môn học bằng bản đồ tư duy” dùng cho giáo viên và học sinh từ lớp 4 đến lớp 12 của hai tác giả trên do Nhà xuất bản Giáo dục phát hành đã được ngành GD quan tâm..
- Muốn vậy, cùng với giảm tải phải tiến hành áp dụng các phương pháp dạy học tích cực, từng bước chuyển cách dạy và học từ chổ trang bị kiến thức cho người học sang dạy học sinh cách tiếp nhận và tìm tòi kiến thức, vận dụng vào thực tế và biến thành kỹ năng của riêng mình.
- Về phía giáo viên:.
- Khi giảng dạy một tiết có liên quan đến BĐTD rất đơn giản, chỉ cần lấy sẵn một tiết n ào đó có ở mạng Internet và chỉnh sửa đôi chút là được và trong giáo án thì không thể hiện rõ từng bước tiến hành sử dụng BĐTD như thế nào, thông qua BĐTD thì giáo viên chưa hướng dẫn cụ thể cho học sinh cách thiết kế và sử dụng nắm bắt kiến thức ở BĐTD ra sao.
- Về phía học sinh:.
- Học sinh chưa có thói quen chuẩn bị đồ dùng học tập như giấy A4, bút màu, bút chì, tẩy hoặc bảng phụ trong tiết học lịch sử mà chỉ dung cho trong tiết học Mỹ thuật.
- Mặt khác, học sinh chưa hiểu rõ cách thể hiện nội dung, kiến thức như thế nào trong việc thiết kế và sử dụng bản đồ tư duy..
- Thực trạng về sử dụng BĐTD trong dạy học lịch sử ở trường THCS Hồng Thủy..
- Với địa bàn tương đối khó khăn, nhận thức của người dân còn thấp, hiểu biết chưa cao, học sinh còn chưa ham muốn học tập bộ môn này.
- Chính vì vậy, chất lượng học tập, sự sáng tạo, tư duy của học sinh còn yếu cho nên việc sử dụng BĐTD trong học tập của các em vẫn gặp khó khăn..
- Hơn nữa chương trình lịch sử quá rộng, kiến thức nhiều mà giáo viên chưa rút gọn những gì cần truyền đạt, những gì chỉ giới thiệu qua và những vấn đề nào cần hướng dẫn cho học sinh..
- Tổ chức dạy học bằng BĐTD..
- Giáo viên hướng dẫn học sinh đi từ khái quát đến cụ thể, dựa trên cơ sở nguyên lý của bản đồ tư duy hướng dẫn học sinh lập bản đồ tư duy:.
- Nội dung chìa khóa là cây cành nhánh) từ đó học sinh mở rộng, phát triển thêm..
- Bước 1: Học sinh lập BĐTD theo nhóm hay cá nhân với gợi ý, hướng dẫn của giáo viên..
- Bước 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết minh về BĐTD mà nhóm mình đã thiết lập..
- Bước 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện BĐTD về kiến thức của bài học đó.
- Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh BĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học..
- Bước 4: Củng cố kiến thức bằng một BĐTD mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn hoặc một BĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó..
- Khi củng cố kiến thức giáo viên hướng dẫn HS hệ thống kiến thức bài học bằng bản đồ tư duy..
- Ghi bảng: Giáo viên tóm tắt bài học bằng một sơ đồ kiến thức (Dàn bài)..
- Đặc điểm của bài này là học sinh đã nắm được những sự kiện, diễn biến và khí thế của phong trào cách mạng nước ta trước đó, nắm được những bước phát triển của cách mạng Việt Nam và điều kiện để tiến tới tổng khởi nghĩa.
- Vì vậy khi dạy bài này chúng ta hướng dẫn học sinh hoạt động nhóm thiết lập BĐTD với “Chìa khóa” là “Tổng khởi nghĩa tháng tám và sự thành lập nước VNDCCH”.
- Từ đó xậy dựng kiến thức của từng nội dung lớn, nhỏ (Cây  cành  nhánh) việc làm này giúp học sinh tư duy lựa chọn kiến thức để lập và phát triển thêm..
- Giáo viên hướng dẫn, gợi ý học sinh tiếp cận những nội dung chính của bài học..
- Chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm được phân công vẽ 1 BĐTD cho 1 nội dung chính của bài và hướng dẫn học sinh triển khai sơ đồ theo các vấn đề, nội dung, sự kiện..
- Lưu ý với học sinh nguyên tắc của BĐTD là chỉ viết những nội dung chính, ngắn gọn, khi trình bày phát triển thêm..
- Qua hoạt động này giáo viên nắm được việc hiểu kiến thức, kỹ năng trình bày, tinh thần học tập của học sinh, từ đó giáo viên vừ bổ sung kiến thức vừa rèn cho các em khả năng thuyết trình trước đông người, kỹ năng tự tin hơn, mạnh dạn hơn, đây cũng là một trong những điểm cần rèn luyện của học sinh hiện nay đó là (kỹ năng sống)..
- Tổ chức cho học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa, chất vấn, khắc sâu kiến thức và hoàn thiện BĐTD về kiến thức của nội dung vừa tìm hiểu.
- Giáo viên cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức của bài, thông qua một BĐTD do GV đã chuẩn bị sẵn (vẽ ở bảng phụ hoặc ở bìa), hoặc BĐTD mà các em vừa thiết kế và cả lớp đã chỉnh sửa, hoàn thiện.
- Giáo viên thường yêu cầu học sinh tái hiện lại một phần nội dung bài học bằng cách gọi học sinh lên bảng trả lời câu hỏi.
- Giáo viên sẽ chấm điểm tùy vào mức độ thuộc bài của học sinh.
- Cách làm này vô tình để nhiều học sinh roi vào tình trạng “học vẹt”, đọc thuộc long mà không hiểu bài.
- Sử dụng bản đồ tư duy vừa giúp giáo viên kiểm tra được phần nhớ lẫn phần hiểu của học sinh đối với bài học cũ.
- Các bản đồ thường được giáo viên sử dụng ở dạng thiếu thiếu thong tin, yêu cầu học sinh điền các thong tin còn thiếu và rút ra nhận xét về mối quan hệ của các nhánh thông tin với từ khóa trung tâm..
- Ví dụ: Hoặc trước khi dạy bài 15: Phong trào cách mạng Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất lịch sử 9), giáo viên yêu cầu học sinh lên bảng điền các thông tin còn thiếu để hoàn thiện BĐTD bài 14: Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất (mục III)..
- Sau khi học sinh đã hoàn thiện bản đồ, học sinh cần rút ra nhận xét về hoàn cảnh ra đời, mục tiêu hoạt động, sự phát triền thành viên của tổ chức ASEAN và nói rõ thái độ chính trị và khả năng cách mạng của từng gia cấp, tầng lớp xã hội Việt Nam sau chiến.
- Đây chính là phần hiểu bài của học sinh mà giáo viên cần căn cứ vào đó để đánh giá, nhận xét..
- Ví dụ: Bài 23: Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và sự thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Lịch sử 9), để xác định lệnh Tổng khởi nghĩa, việc giành chính quyền ở Hà Nội, trong cả nước và ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thành công của cách mạng tháng Tám là phần kiến thức không khó nhưng không dễ nhớ đối với học sinh.
- Nếu giáo viên sử dụng phương pháp trình bày truyền thống thì vấn đề vẫn được giải quyết nhưng không hiệu quả vì nội dung dàn trải, hết nội dung này đến nội dung khác, học sinh sẽ không thấy được mối quan hệ về việc chớp thời cơ để Tổng khởi nghĩa và việc dành chính quyền ở Hà Nội có ý nghĩa như thế nào đối với việc giành chính quyền trong cả nước và đặc biệt là ý nghĩa to lớn, nguyên nhân thành công của cách mạng tháng Tám..
- Sau khi giới thiệu xong nội dung kiến thức cần nắm trong bài học hôm nay giáo viên có thể tổ chức cho học sinh làm việc theo cá nhân hoặc theo nhóm nhỏ, dựa vào nội.
- Cuối cùng giáo viên cùng học sinh hoàn thiện được một bản đồ tư duy kiến thức theo ý muốn của mình, kết quả có thể như sau..
- Sử dụng bản đồ tư duy trong việc củng cố kiến thức bài học.
- Phù hợp với kiến thức củng cố kiến thức cho học sinh sau bài học thì dạng bài tập thích hợp là cho học sinh tự thiết kế cho mình một bản đồ theo ý muốn sáng tạo của mình với màu sắc tùy ý, có thể bản đồ thiếu nội dung kiến thức cụ thể hoặc đầy đủ lượng kiến thức của bài học như vừa tiếp thu trong bài học, hoạt động cá nhân hoặc nhóm.
- Ví dụ: Khi dạy 11: Trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai (lịch sử 9), sau khi học sinh đã tự thiết kế cho mình một BĐTD xong thì giáo viên có thể so sánh, đối chiếu, nhận xét đánh giá bài của học sinh với BĐTD mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn rồi..
- Ví dụ: Khi dạy 26: Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp lịch sử 9), sau khi dạy xong mục I: Chiến dịch Biên giới thu – đông 1950, giáo viên có thế nhấn mạnh kiến thức lại nội dung kiến thức bài học này một cách đầy đủ và trực quan bằng BĐTD mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn, qua đó học sinh sẽ hứng thú, nhớ lâu, nắm chắc bài học hơn..
- Qua việc củng cố nội dung bài học theo hình thức này học sinh sẽ nhỡ lâu, nhớ kỹ nội dung bài học và phát huy được tính sáng tạo, tư duy của mình, giúp các em yêu thích môn lịch sử hơn..
- Vì làm bài tập về nhà sẽ có nhiều thời gian và điều kiện để tìm kiếm tài liệu nên bài tập về nhà mà giáo viên giao cho học sinh hoặc nhóm học sinh trước hết phải gắn với nội dung bài học và trong điều kiện cho phép(trình độ học sinh, thời gian, kinh tế)..
- Yêu cầu đối với bài về nhà cũng cần khó hơn, phức tạp hơn và cần sự đầu tư lớn hơn(cả kênh chữ, kênh hình, màu sắc, lượng thông tin), qua đó còn thể hiện cả tính sáng tạo và sự tích cực tìm kiếm tài liệu học tập của học sinh..
- Ví dụ: Để dạy tốt bài 18: Đảng cộng sản Việt Nam ra đời(lịch sử 9) giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh về nhà tìm hiểu nội dung của bài học theo các câu hỏi cuối mỗi mục trong bài, mặt khác yêu cầu học sinh sưu tâm một số tranh ảnh có lien quan đến bài học và thể hiện được tính sáng tạo, thẩm mỹ cao.
- cho học sinh đối chiếu so sánh nội dung đã chuẩn bị ở nhà xem đúng không, đầy đủ chưa, đồng thời giáo viên phải chuẩn bị một BĐTD có đầy đủ nội dung kiến thức của bài học này để giới thiệu và nhấn mạnh kiến thức cho học sinh nắm chắc, nhớ sâu bài học..
- Sau mỗi chương mỗi phần, giáo viên cần phải tổng kết, ôn tập, hệ thống hóa kiến thức cho học sinh trước khi các em làm bài tập và làm bài kiểm tra chương, kiểm tra học kì, thi cuối năm..
- Với thế mạnh của BĐTD là kiến thức được hệ thống hóa dưới dạng sơ đồ, các đường nối là sự diễn tả mạch logic kiến thức hoặc các mối quan hệ nhân quả hay quan hệ tương đương, cộng them màu sắc của các đường nối, màu sắc của các đơn vị kiến thức, sẽ giúp học sinh nhìn thấy “Bức tranh tổng thể” cả một phần kiến thức đã học.
- Thông thường giáo viên cho một số câu hỏi và bài tập để học sinh chuẩn bị ở nhà..
- Trong tiết ôn tập, củng cố, giáo viên hướng dẫn học sinh tự lập BĐTD, sau đó cho học.
- Cách khác: Giáo viên lập BĐTD mở.
- Trong giờ ôn tập, củng cố, giáo viên chỉ vẽ một số nhánh chính, thậm chí không đủ nhánh, hoặc thiếu, hoặc thừa thông tin trong tiết học đó, giáo viên yêu cầu học sinh tự bổ sung, thêm hoặc bớt thông tin, để cuối cùng toàn lớp lập được một BĐTD ôn tập, củng cố kiến thức chương đó tương đối hoàn chỉnh và hợp lý.
- Cách làm này sẽ lôi cuốn được sự tham gia của học sinh( suy nghĩ nhiều hơn, trao đổi nhiều hơn, tranh luận nhiều hơn) và giờ ôn tập, tổng kết chương sẽ không tẻ nhạt và có chất lượng hơn..
- Qua nhiều năm dạy học lịch sử lớp 9 tôi nhận thấy rằng đổi mới phương pháp dạy học được sử dụng nhuần nhuyễn trong các tiết dạy sẽ làm cho tiết dạy sinh động, học sinh hứng thú học tập và đặc biệt là phát huy hết khả năng tư duy, sáng tạo, ốc thẩm mỹ của các em.
- Bảng thống kê đánh giá việc học môn lịch sử học sinh lớp 9A, 9B năm học 2011-2012..
- Đối với giáo viên:.
- Phải thường xuyên tổ chức dạy học theo phương pháp sử dụng BĐTD để phát triển hết khả năng sáng tạo, thẩm mỹ, khat năng tư duy của học sinh..
- Cần phải hướng dẫn kỹ cho học sinh chuẩn bị nội dung bài học ở nhà thông qua BĐTD, sau đó kiểm tra sự chuẩn bị của các em và quan tâm các nhóm, các học sinh yếu kém, tuyên dương, động viên những nhóm hcj sinh làm tốt nhiệm vụ mà giáo viên giao để khuyến khích các em phát huy tạo niềm say mê cho các em yêu thích môn học..
- dụng BĐTD đúng lúc, đúng cách, phù hợp với đối tượng học sinh và quan trọng là đảm bảo việc truyền tải nội dung bài học.
- Với đề tài này, tôi nghĩ rằng có thể áp dụng cho học sinh ở các khối lớp 6,7,8,9 tại trường THCS Hồng Thủy và mở rộng ra các trường THCS trong toàn quốc..
- Theo đánh giá của nhiều giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, BĐTD sau khi ứng dụng vào các tiết học đã mang lại hiệu quả thiết thực như: Giúp học sinh thuộc bài ngay tại lớp, nhớ nhanh, nhớ sâu và lâu những nội dung của bài học.
- Mặt khác, dạy học bằng BĐTD giúp học sinh không nhàm chán về bài học mà luôn sôi nổi, hào hứng từ đầu đến cuối tiết học.
- Phương pháp này đặc biệt có ích trong việc củng cố kiến thức và rèn luyện, phát triển tư duy logic, năng lực cho học sinh, nhất là những học sinh khá, giỏi.
- Học sinh có thể tự học ở nhà rất hiệu quả, không tốn kém..
- Qua nghiên cứu lí luận và thực nghiệm dạy học cho thấy, sử dụng BĐTD trong dạy học kiến thức mới giúp học sinh học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả học sinh tham gia xây dựng bài một cách hào hứng.
- “kiến thức và hội họa” là niềm vui sáng tạo hàng ngày của học sinh và cũng là niềm vui của chính thầy cô giáo và phụ huynh học sinh khi chứng kiến thành quả lao động của học trò của mình.
- Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên BĐTD), hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều đã học trước đó chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc)..
- nội dung quan trọng của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ GD&ĐT đang đẩy mạnh triển khai..
- Với trường có điều kiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin tốt có thể cài vào máy tính phần mềm Mindmap cho giáo viên, học sinh sử dụng, bằng cách vào trang google.com.vn hoặc download.com.vn gõ vào ô “tìm kiếm” cụm từ.
- Việc vận dụng BĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học.
- Những giải pháp được trình bày trên đây đã được đúc kết kinh nghiệm từ quá trình tôi làm giáo viên đứng lớp, được công tác trong một môi trường làm việc nghiêm túc, chuyên nghiệp và cụ thể là trên thực tế kết quả học sinh của lớp mình