« Home « Kết quả tìm kiếm

Thái độ xã hội đối với người đồng tính luyến ái


Tóm tắt Xem thử

- Bối cảnh nghiên cứu Ngày nay, các nghiên cứu xã hội học đã khẳng định xã hội nào cũng có hiện tượng đồng tính luyến ái.
- Tuy không thể thống kê một cách chính xác, nhưng các nhà khoa học trên thế giới ước tính người đồng tính luyến ái chiếm khoảng 3% dân số của mỗi quốc gia.
- Mặc dù người đồng tính luyến ái là một bộ phận hợp thành nên nhân loại nhưng ở nhiều nơi trên thế giới họ vẫn là nạn nhân của tình trạng ngược đãi.
- Tại những nước theo đạo Hồi, đồng tính là vấn đề không thể khoan dung.
- Người đồng tính luyến ái thường bị lăng mạ, bị cấm đoán, bị trừng phạt, thậm chí bị tử hình chỉ vì có xu hướng tình dục khác biệt.
- Nhưng ngay cả ở những xã hội cởi mở như Hoa Kỳ, định kiến và phân biệt đối xử với người đồng tính luyến ái cũng không vì thế mà mất đi.
- Sự trớ trêu của tạo hoá đã gây nên những bi kịch đối với người đồng tính.
- Theo điều tra của Viện nghiên cứu dư luận xã hội Mỹ, 41% dân số Mỹ cho rằng nếp sống của người đồng tính luyến ái mâu thuẫn với nếp sống của những cư dân còn lại.
- Sự miệt thị và ghê sợ người đồng tính luôn đi kèm với nhau mà hậu quả là hàng năm ở Mỹ có hàng chục người đồng tính luyến ái bị sát hại.
- Người ta nhận thấy tất cả những trường hợp trên đều chứa đựng chung một yếu tố là thành kiến chống lại sự bất thường về giới và xu hướng tình dục của những người đồng tính.
- Tại Việt Nam, đồng tính luyến ái là một chủ đề nhạy cảm, mới nổi lên và thu hút sự chú ý của dư luận.
- khiến rất nhiều người đồng tính không dám công khai thân phận của mình.
- Chưa bao giờ hoạt động của người đồng tính luyến ái và số lượng các xuất bản phẩm về họ lại gia tăng mạnh như thời gian vừa qua.
- Trên báo chí và trên mạng Internet, độc giả không khó để tìm kiếm những phóng sự viết về người đồng tính luyến ái và cuộc sống của họ trong “thế giới thứ ba”.
- Một vài website riêng của người đồng tính luyến ái được thành lập.
- ở Việt Nam, vấn đề đồng tính luyến ái chưa được giới khoa học quan tâm thích đáng.
- Sự im ắng này được minh chứng bằng việc có rất ít các nghiên cứu xã hội học về người đồng tính luyến ái, đặc biệt là những nghiên cứu do nghiên cứu viên là người Việt Nam thực hiện (Vũ Ngọc Bảo & Philippe Girault, 2005).
- Cho tới nay, các nghiên cứu về người đồng tính luyến ái ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào việc tìm hiểu kiến thức và các hành vi nguy cơ liên quan đến lây nhiễm HIV (Care International, 1993.
- Kết quả là sự tồn tại của nhóm đồng tính luyến ái nữ và thái độ của cộng đồng đối với hiện tượng đồng tính luyến ái gần như bị lãng quên.
- Từ bối cảnh chung đó, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu nhằm tìm hiểu “Thái độ xã hội đối với người đồng tính”.
- Nghiên cứu được tiến hành nhằm bổ sung những thiếu hụt thông tin xung quanh người đồng tính.
- Trọng tâm của nghiên cứu hướng tới việc khắc hoạ thái độ của xã hội đối với người đồng tính trong bối cảnh của Việt Nam, cũng như bối cảnh xã hội dẫn tới việc người đồng tính luyến ái bị kỳ thị.
- Mục tiêu nghiên cứu ã Mô tả nhận thức, tình cảm và hành vi ứng xử của xã hội đối với người đồng tính.
- Đối tượng nghiên cứu ã Thái độ xã hội đối với người đồng tính IV.
- Rất khó để xác định chính xác bao nhiêu phần trăm người đồng tính luyến ái vì không có nhiều người thừa nhận rộng rãi sở thích tình dục của mình.
- Thường thì những người đồng tính luyến ái luôn giữ kín và rất sợ bị xã hội phán xét.
- Hiện đang có rất nhiều cuộc bàn cãi về đồng tính luyến ái.
- Tuy nhiên, theo Tổ chức Y tế thế giới thì, đồng tính luyến ái là một khuynh hướng sinh hoạt tình dục, không phải là một loại bệnh hoạn, rối loạn tâm thần, hay tệ nạn xã hội.
- Chúng tôi chia sẻ quan điểm của Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ (American Psychiatric Asssociation, APA) vào năm 1973 và Tổ chức y tế thế giới (World Health Organization, WHO) vào năm 1992 khi khẳng định đồng tính luyến ái không phải là bệnh.
- Không phải là bệnh có nghĩa đồng tính luyến ái không lây lan, không di truyền và không thể “chữa trị” bằng thuốc hay các biện pháp tâm lý trị liệu..
- Chúng tôi cũng tán thành quan điểm cho rằng đồng tính luyến ái là một xu hướng tình dục có tính chất cố định, không phải là sự lựa chọn của cá nhân.
- Người đồng tính chỉ là nạn nhân của một cấu trúc sinh học không thể thay đổi được.
- người đồng tính luyến ái bị cấm đoán về tình cảm - tình dục, không được thừa nhận công khai về mặt xã hội và không được pháp luật bảo vệ.
- Bởi vì có nhiều người có ấn tượng sai về những người đồng tính luyến ái, nên chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng, những người đồng tính luyến ái vẫn là những người bình thường như bao người khác.
- Những người đồng tính luyến ái cũng yêu như bạn.
- Đối với những người đồng tính luyến ái, yêu một người cùng giới là sở thích theo bản năng của họ.
- Nói cách khác, con người không có sự chọn lựa làm người có tình dục khác giới hay người đồng tính luyến ái.
- Những người đồng tính luyến ái hay những người hoặc quan hệ tình dục cùng giới thì đều giống như tất cả mọi người, có quyền được tôn trọng..
- Người đồng tính luyến ái cũng phải có bạn tình, tất nhiên là bạn đồng giới của mình, để có thể có một cuộc sống thực sự hạnh phúc.
- Trong thực tế, có rất nhiều người đồng tính luyến ái đã lấy vợ nhưng không bao giờ đạt được sự thỏa mãn tình dục thực sự.
- Lịch sử nghiên cứu về đồng tính luyến ái.
- Nhiều nhà nghiên cứu coi tình dục đồng giới (hay còn gọi là “đồng tính luyến ái”) như một hiện tượng bẩm sinh.
- Từ sau Ebinzo, nhiều nhà khoa học đã không lên án những nhu cầu của người đồng tính luyến ái.
- May mắn hơn những người đồng tính luyến ái, những người lưỡng tính luyến ái vẫn có thể có chồng (vợ), có con nhưng vẫn có… bồ cùng giới.
- Về mặt sinh học, những người đồng tính luyến ái hoàn toàn bình thường.
- Có một điều các nhà chuyên môn rõ nhất là nữ giới cũng có đồng tính luyến ái nhưng ít gặp hơn nam.
- Người đồng tính ái thực sự (bản thể đồng tính ái) là người có ham muốn gần gũi và quan hệ tình dục với bạn tình cùng giới.
- Còn người đồng tính giả không thực sự có bản thể đồng tính ái, nhưng vẫn muốn có quan hệ tình dục với người cùng giới vì một hoàn cảnh xã hội nào đó.
- Người đồng tính ái nữ được gọi là lesbian hay ô môi (xuất xứ từ chữ homo sexual).
- Đồng tính ái nam gọi là gay.
- Từ pê-đê (gốc tiếng Pháp) vốn chỉ những người đàn ông chỉ có ham muốn và quan hệ tình dục với trẻ em trai, sau được dùng chỉ chung những người đồng tính nam.
- Cần phân biệt người đồng tính ái với người lưỡng tính.
- Về mặt cơ thể, người đồng tính ái vẫn có giới tính xác định, có khả năng quan hệ tình dục với bạn tình khác giới và sinh con (nhưng họ không thích điều đó).
- Đồng tính ái giả có 2 dạng.
- Đồng tính ái thay thế: Là những người có quan hệ tình dục cùng giới do ở quá lâu trong một môi trường chỉ có người cùng giới..
- Đồng tính ái tò mò: Là những người có quan hệ tình dục cùng giới vì tò mò, muốn thử cho biết hoặc do chạy theo mốt.
- khiến người đó suy nghĩ và hành động theo hướng có quan hệ đồng tính.
- Một cách cụ thể, đồng tính luyến ái bắt nguồn từ những nguyên nhân sau: a/ Nguyên nhân sinh học.
- Nhưng vào năm 1987, đồng tính ái tự hại cũng không còn bị xem là bệnh nữa, vì các nhà tâm thần học cho rằng hầu như người đồng tính luyến ái nào cũng trải qua giai đoạn tự xung đột đó.
- Thú đồng tính ít ai ngờ hươu cao cổ cũng thích quan hệ tình dục đồng giới.Hành vi tình dục đồng giới đã được giới khoa học quan sát khá kỹ lưỡng ở hầu như tất cả các loài vật.
- Trong số họ, có 16 người đồng tính luyến ái.
- Bác sĩ phát hiện ra rằng, những người đồng tính luyến ái, thành phần INH3 (cấu trúc nhỏ được biết đến như một yếu tố điều khiển thái độ tính dục ở động vật có vú) nhỏ gấp hai lần so với những người khác.
- Năm 1993, một nhóm nghiên cứu y học do Dean Harner đứng đầu đã tìm mối liên hệ giữa gene và chứng đồng tính luyến ái.
- Họ tìm thấy một điểm đặc biệt trên nhánh dài của nhiễm sắc thể X, được truyền từ mẹ sang con và thường gặp ở những người đồng tính luyến ái.
- Vậy mà, theo các tác giả nghiên cứu, bàn tay của những người phụ nữ đồng tính luyến ái mang đặc điểm này của đàn ông.
- Hội người đồng tính luyến ái tâm huyết với các kết quả trên vì chúng chứng tỏ rằng họ chẳng có lỗi gì khi có quan hệ tình dục với người cùng giới.
- Phe bảo thủ thì quan tâm tới các nghiên cứu trên vì họ muốn khẳng định, người đồng tính luyến ái là người có khiếm khuyết về cấu tạo thể chất.
- Quan điểm của tôn giáo Tôn giáo đã đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra quan điểm của một xã hội đối với đồng tính luyến ái.
- Trong lịch sử, chỉ có các tôn giáo theo truyền thống Abraham xem đồng tính luyến ái là một việc tiêu cực.
- Các nhóm không chịu ảnh hưởng của các tôn giáo theo truyền thống Abraham thường xem đồng tính luyến ái như một điều thiêng liêng hay không có ý kiến.
- Khái niệm "đồng tính luyến ái" hiện đang được hiểu ở các nước Tây phương là một khái niệm mới, không tương ứng với khái niệm trước đây.
- có thể được xem là có quan hệ tình dục với người cùng phái, nhưng khái niệm "đồng tính luyến ái" hiện đại là một khái niệm họ chưa được biết đến.
- Tại châu á ái tình đồng tính là một việc có từ xưa và được xã hội thừa nhận.
- Tại Trung Quốc, quan hệ đồng tính được ghi nhận từ năm 600 TCN.
- Tương tự, tại Thái Lan không có khái niệm "đồng tính luyến ái" mãi đến cuối thế kỷ 20.
- Tại Châu Mỹ Trong xã hội thổ dân Bắc Mỹ, hình thức đồng tính luyến ái phổ biến nhất là những người được xem là có hai linh hồn.
- Trong một số nền văn hóa Hồi giáo tục lệ đồng tính luyến ái rất phổ biến (xem Burton, Gide), và vẫn còn tồn tại ngày nay.
- Từ thời Cận đại Từ năm 1973, các nhà tâm lý học không còn xem đồng tính luyến ái là một bệnh tâm thần nữa.
- Một số quốc gia gần đây đã cho phép người đồng tính có quyền kết hôn cũng như nhận con nuôi.
- Trong lĩnh vực tôn giáo, một số tôn giáo cũng bắt đầu tỏ ra cởi mở với người đồng tính.
- Trong tiếng Anh, chữ ‘queer’ có hai nghĩa: một, người đồng tính nam.
- Một, khai quật lại lịch sử văn học trong đó những người đồng tính bị ức chế và áp chế.
- Hai, phát hiện và phân tích nhiều tác phẩm văn học do những người đồng tính sáng tác trong quá khứ cũng như trong hiện tại.
- Những người đồng tính luyến ái ngay từ tuổi ấu thơ đã có thể bộc lộ dấu hiệu tình dục của mình của mình qua những sở thích về đồ chơi.
- Nhiều cậu con trai đồng tính luyến ái ở tuổi dậy thì vẫn có thể bắt chước các bạn cùng tuổi, tức là vẫn thích hôn các cô gái.
- Chúng tôi đã phỏng vấn một cặp sinh đôi, trong đó một người đồng tính luyến ái, mỗi người nhận xét về cha mẹ mình một kiểu.
- Đồng tính luyến ái xuất hiện ở đàn ông nhiều hơn ở đàn bà.
- môi trường chỉ ở vào vị trí thứ sinh trong việc định hình hiện thực trong tồn tại xã hội của người đồng tính luyến ái.
- Những người bác bỏ hoàn toàn tồn tại sinh học và tồn tại xã hội của luyến ái đồng giới còn cho rằng người đồng tính luyến ái là đồng tính luyến ái chỉ vì họ lựa chọn cho mình một lối sống như vậy.
- Có đúng là đồng tính luyến ái có sự lựa chọn không? Câu trả lời là : Có.
- Trong môi trường tự do tình dục khác phái nhưng các trẻ trai trở thành người đồng tính công khai vẫn không hề thuyên giảm, đó là do lựa chọn.
- Nếu chỉ có lựa chọn mà không phải là tự nhiên, không một người đồng tính luyến ái nào lại điên rồ đến mức không lựa chọn việc thoát khỏi tình cảnh “ngang trái” xã hội và hệ lụy “đạo đức” của mình.
- Tâm lý và sinh lý Trong số những người đồng tính luyến ái có male-gay và female-gay, male-lesbian và female-lesbian.
- Người đồng tính hay dị tính, mỗi người có cách riêng của mình, nhưng đều vậy.
- Khi nói quan hệ tâm lý - sinh lý ở người đồng tính luyến ái có lẽ người ta cũng muốn nói đến chuyện đó.
- Cũng như vậy, nếu người đồng tính luyến ái không trực tiếp sinh sản không có nghĩa là họ không đóng góp vào sinh tồn của con người.
- Người đồng tính luyến ái ngày nay không hề đơn độc đi tìm kiếm ủng hộ.
- Báo Người Lao Động đăng bài “Tình yêu đồng giới tại châu á không còn là chuyện không tưởng” không phải vì đây là tờ báo của người đồng tính ái.
- Ngộ nhận thông thường nhất đối với đồng tính ái là cho rằng quan hệ tình cảm của những con người này bị thôi thúc thuần vì những ham muốn tình dục với người đồng phái.
- Tuy có những trường hợp người đồng tính phóng túng trong việc tìm kiếm những cảm giác thân xác, họ không phải là đại diện của những người đồng tính ái