« Home « Kết quả tìm kiếm

Tiếp cận một phương diện của lịch sử văn học Việt Nam từ những tiền đề thực tiễn và lí thuyết


Tóm tắt Xem thử

- Tiếp cận một phương diện của lịch sử văn học Việt Nam từ những tiền đề thực tiễn và lí thuyết Tiếp cận một phương diện của lịch sử văn học Việt Nam từ những tiền đề thực tiễn và lí thuyết.
- Những ai theo dõi thường xuyên các hoạt động nghiên cứu văn học trong nước sẽ có thể nhận thấy một hiện tượng đáng chú ý: sự quan tâm trở lại đối với nghiên cứu lịch sử văn học hay nói cách khác những chuyển động hứa hẹn sự phát triển đột biến của nghiên cứu lịch sử văn học dân tộc.
- Thực ra, trong suốt nhiều thập niên qua, nghiên cứu lịch sử văn học vẫn luôn luôn là một lĩnh vực nghiên cứu có nhiều thành tựu và thu hút được nhiều nhà nghiên cứu, đặc biệt là giới nghiên cứu chuyên nghiệp.
- Sâu xa hơn , hệ quả của một cách quan niệm như vậy chính là khuynh hướng nhân danh tính cụ thể lịch sử của đối tượng nghiên cứu để biến những thời đại văn học thành những thực thể tự trị không có liên hệ gì với tiến trình văn học[2].
- Xét đến cùng, tất cả mọi hoạt động nghiên cứu văn học đều phải lấy sự phát triển của đời sống văn học hiện tại làm điểm xuất phát và hướng tới.
- Trở lại với các nhà nghiên cứu lịch sử văn học ở Việt Nam, có thể lấy mốc 1986 làm thời điểm đánh dấu một sự đột biến của phân môn.
- Dễ nhận thấy là trong suốt năm cuối thập niên 80 và thập niên 90 của thế kỷ XX, những vấn đề mà chính giới nghiên cứu lịch sử văn học quan tâm chủ yếu liên quan đến sự phân kỳ văn học, các mốc thời gian để phân kỳ văn học và việc đánh giá lại một số “vùng đất bị lãng quên” của văn học sử.
- Đến những năm cuối của thế kỷ XX và trong những năm đầu của thế kỷ mới, cùng với sự khép lại của một thế kỷ, bắt đầu xuất hiện một yêu cầu của toàn xã hội là tổng kết lại một thế kỷ văn học và rộng hơn, viết lại lịch sử văn học.
- ở những trung tâm nghiên cứu văn học lớn của cả nước , nhiều dự án viết lại lịch sử văn học đang được triển khai và trong đó, có nhiều dự án đã nhận được một lượng kinh phí lớn của Chính phủ.
- Đáng chú ý là trong những năm gần đây, các ý kiến đặt vấn đề lại về phương pháp viết lịch sử văn học đã bắt đầu xuất hiện với một mật độ dầy đặc trên các tạp chí chuyên ngành của giới nghiên cứu văn học .
- Tạm đặt sang một bên sự đúng sai cũng như tính khả thi của từng ý kiến, có thể nhận thấy một nhu cầu có thực của toàn bộ giới nghiên cứu : tìm kiếm một cơ sở phương pháp luận mới cho nghiên cứu lịch sử văn học , xác lập một cái nhìn mới về lịch sử văn học.
- Bên cạnh đó, cũng có thể thấy, trong tổng thể khoa nghiên cứu văn học, đang xuất hiện những tiền đề lý thuyết hết sức thuận lợi cho nghiên cứu lịch sử văn học .
- Chúng tôi muốn nhấn mạnh những nỗ lực của nhiều nhà nghiên cứu trong việc giới thiệu những thành tựu của lý luận văn học(các luận điểm về phản ánh luận nghệ thuật của các nhà mỹ học Marxism hiện đại phương Tây, những quan điểm về tính mở của tác phẩm văn học, những luận điểm lý thuyết của cấu trúc luận.
- và các trường phái nghiên cứu , phê bình văn học phương Tây (chủ nghĩa hình thức Nga, Thi học cấu trúc và một số thành tựu của Phê bình mới, Tín hiệu học.
- Mỹ học tiếp nhận và Văn học so sánh...).Tiếp xúc với lý luận văn học và nghiên cứu văn học phương Tây, người nghiên cứu sẽ có điều kiện tự trang bị một bộ công cụ để xử lý đối tượng tác phẩm văn học, đồng thời có những tiền đề cần thiết để xác lập một cơ sở lý thuyết mới trong việc tiếp cận hiện tượng văn học.
- Đó chính là phương diện khiến chúng tôi khẳng định về những chuyển động hứa hẹn sự phát triển đột biến của nghiên cứu lịch sử văn học ở Việt Nam.
- Đặt trong văn cảnh tổng quát của nghiên cứu lịch sử văn học như trên, chúng tôi muốn đề xuất một cách đặt vấn đề mới trong việc nghiên cứu sự hình thành và phát triển của tự sự nghệ thuật bằng chữ quốc ngữ một bộ phận chủ đạo, nhân vật chính trong toàn bộ tiến trình hiện đại hóa văn học trong ba thập niên đầu thế kỷ XX (từ 1900 đến 1930- thời điểm Tự lực văn đoàn hình thành).
- Trong toàn bộ tiến trình lịch sử văn học Việt Nam, ba mươi năm đầu thế kỷ XX là giai đoạn có tính chất bản lề trong bước chuyển giữa hai thời đại lớn của văn học dân tộc, là thời điểm diễn ra cuộc tái cấu trúc toàn bộ nền văn học trên cơ sở sự va chạm giữa hai hệ thống văn học, truyền thống và hiện đại, phương Đông và phương Tây.
- Sự lựa chọn giai đoạn văn học này làm đối tượng nghiên cứu sẽ cho phép móc nối lại những mắt xích còn thiếu trong tiến trình phát triển có tính liên tục của văn học dân tộc từ truyền thống đến hiện đại.
- Tất nhiên, chính tính chất bản lề đó cũng khiến cho bộ phận văn học này trở thành một trong những giai đoạn văn học phức tạp và giàu tính vấn đề nhất trong lịch sử văn học hiện đại .
- Kể từ những công trình văn học sử đầu tiên được khởi thảo và hoàn thành dưới thời Pháp thuộc cho đến nay, việc nghiên cứu về giai đoạn này có những bước tiến vượt bậc.
- Tuy nhiên, nhìn vào thực tế nghiên cứu, có thể thấy, bên cạnh những thành tựu không thể phủ nhận đó, việc tiếp cận giai đoạn văn học đầy phức tạp này cũng đang tồn tại những bế tắc chưa được giải quyết triệt để.
- Chính từ lý do đó, chúng tôi muốn đặt vấn đề xác lập một cơ sở lý thuyết mới để xử lý bộ phận văn học đầy phức tạp này.
- Năm 1970, trong công trình Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học văn học[4.
- Jauss đã đề cập đến cuộc khủng hoảng của nghiên cứu lịch sử văn học ở phương Tây thế kỷ XX.
- Lanson...bước sang thế kỷ XX, nghiên cứu lịch sử văn học bắt đầu rơi vào tình trạng khốn đốn.
- Điều đó chứng tỏ sự bất lực của các nhà nghiên cứu lịch sử văn học trong việc xác lập một phương pháp luận nghiên cứu của riêng mình.
- Công trình của H.R.Jauss, dù xuất hiện cách đây trên ba thập niên cũng không khỏi làm chúng ta liên hệ đến tình hình nghiên cứu lịch sử văn học ở Việt Nam hiện nay.
- Đời sống văn học ở Việt Nam vốn bình lặng.
- Dẫu gần đây, người ta có ồn ào nói nhiều đến sự chững lại, sự trì trệ của một vài thể loại văn học (tiểu thuyết, thơ.
- Dường như sau gần một thế kỷ phát triển kể từ bộ lịch sử văn học Việt Nam đầu tiên do Dương Quảng Hàm biên soạn, sau những công trình lịch sử văn học đồ sộ của nhóm Lê Quý Đôn, của Thanh Lãng, Phạm Thế Ngũ, của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, cả giới nghiên cứu đang đứng trước một câu hỏi lớn: Cần phải biên soạn lịch sử văn học như thế nào? Một câu hỏi mang tính lý thuyết.
- Không có dự định làm thay công việc mà cả giới nghiên cứu với những trí tuệ xuất sắc đang làm, chúng tôi chỉ đặt một mục tiêu khiêm tốn hơn, trình bày những suy nghĩ của mình về lý thuyết nghiên cứu được gợi ý từ một số thành tựu của nghiên cứu văn học phương Tây và để áp dụng cho một địa hạt hạn chế: lịch sử của một thể loại.
- Nghiên cứu văn học trong thế kỷ XX bị đặt trước những cực đối lập về lý thuyết: hoặc đi sâu vào những nghiên cứu có tính vi phân, coi văn bản như những đơn vị tự trị và toàn quyền, hoặc tìm hình ảnh của những cấu trúc vĩ mô (lịch sử, xã hội, tâm lý, tư tưởng.
- Mỗi định hướng trong số những định hướng tiếp cận kể trên đều hứa hẹn những tiềm năng lớn cho nghiên cứu văn học nhưng đồng thời cũng sớm bộc lộ những giới hạn.
- Những nhát cắt lý thuyết đó hằn sâu lên toàn bộ nghiên cứu văn học thế kỷ XX và quy định toàn bộ sự phát triển của Ngành khoa học này trong toàn bộ thế kỷ, vừa theo hướng đi sâu vào những dự án chuyên biệt, vừa theo hướng tìm cách hợp nhất những định hướng nghiên cứu[7].
- thể hiện những nỗ lực tiếp cận với những thành tựu nghiên cứu văn học thế giới của giới nghiên cứu Việt Nam.
- Toàn bộ tinh thần của Hình thức luận có thể thu gọn trong phát biểu của R.Jakobson: “Đối tượng của khoa học về văn chương không phải là văn học mà là “tính văn học” (litérarité, literaturnost), nghĩa là cái làm cho một tác phẩm trở thành tác phẩm văn chương”[8].
- Có thể coi trào lưu nghiên cứu này như là một phản ứng tái lập lại sự quân bình trong nghiên cứu văn học trước sự lan tràn của nghiên cứu xã hội học và lịch sử tư tưởng trong nghiên cứu văn học.
- Mặc dù có một số phận sóng gió ngay chính trên Tổ quốc của mình, Hình thức luận khẳng định có một khát vọng lớn lao của nghiên cứu văn học: xây dựng một bộ khung lý thuyết nghiên cứu văn học dựa trên ý thức về sự tồn tại độc lập của văn học với những hình thái ý thức xã hội khác và một khoa học về những vấn đề của riêng văn học (chúng tôi nhấn mạnh).
- Một trong những đóng góp lớn nhất của Hình thức luận là luận điểm về sự tiến triển của văn học mà theo đó, lịch sử văn học hiện lên như là quá trình vận động của những hệ thống được hợp thành bởi những thể loại văn học với quy luật chuyển các thể loại ở ngoại vi vào trung tâm và “Phong thánh cho những thể loại nhỏ”[10].
- Với Hình thức luận, lần đầu tiên, thể loại được đưa vào trung tâm của lịch sử văn học và nhờ đó, văn học đạt được giá trị của một hệ thống tự thân có lịch sử của riêng mình độc lập với thông sử và lịch sử của những hệ chỉnh thể (chúng tôi sử dụng khái niệm của nhà nghiên cứu Phạm Vĩnh Cư)[11] tương cận (tư tưởng, triết học, chính trị.
- Những nghiên cứu của những nhà Hình thức luận đã mở ra cánh cửa vào thế giới nội tại của tác phẩm nghệ thuật ngôn từ và thực sự cung cấp những công cụ hữu hiệu để nghiên cứu cơ chế cấu thành tác phẩm văn học[12].
- Phạm vi bao quát của chủ nghĩa cấu trúc là rất lớn, ở đây, chúng tôi chỉ bàn đến những gợi ý của Chủ nghĩa cấu trúc liên quan đến văn học.
- Xuất phát từ định hướng đó, trong nghiên cứu văn học, khi tiếp cận với lịch sử thể loại văn học, các nhà nghiên cứu đã đề xuất sự phân biệt giữa các phạm trù thể loại lý tưởng/ thực tế (Northrop Frye), thể loại lý thuyết/ lịch sử (T.Todorov), thức/ thể loại (Gérard Genette) nghĩa là phân biệt giữa mô hình lý thuyết phản ánh đặc điểm cấu trúc của thể loại trong một giai đoạn văn học nhất định với sự biểu hiện sinh động của mô hình đó trong những tác phẩm cụ thể.
- với các khái niệm về không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, điểm nhìn, giọng điệu phát ngôn (gắn với vị thế của chủ thể phát ngôn), sự tụ tiêu (focalisation) với tư cách những thành tố và những nguyên tắc cấu trúc, tổ chức văn bản tự sự (chúng tôi nhấn mạnh)[16] đã cung cấp những công cụ lý thuyết quan trọng để mô hình hóa các hình thức tự sự nghệ thuật qua các giai đoạn lịch sử phát triển của văn học.
- Những thể loại dẫu được gọi bằng cùng một tên gọi nhưng thuộc về những thời đại văn học khác nhau (nghĩa là thuộc những cấu trúc khác nhau) chắc chắn sẽ mang những đặc điểm khác nhau.
- Nói cách khác, ý nghĩa của một thể loại trong một thời kỳ văn học trong quá khứ được xác lập trên cơ sở sự khu biệt với những thể loại tương cận trong cùng một nhát cắt đồng đại chứ không phải trên cơ sở áp đặt những giá trị hiện tại.
- Trên đây, chúng tôi đã trình bày những gợi ý lý thuyết từ hai trường phái nghiên cứu khoa học văn học lớn của thế kỷ XX.
- Có điều, trong một thời gian dài, giới nghiên cứu văn học cũng như mỹ học ở các nước xã hội chủ nghĩa cũ hầu như không có thêm những khai triển nào mới hơn về phản ánh luận từ các luận điểm của những nhà kinh điển.
- Chính vì vậy, trong nghiên cứu văn học ở các nước xã hội chủ nghĩa cũ và đặc biệt ở Việt Nam, nghiên cứu văn học được lược quy thành công việc tìm nội dung phản ánh của văn học, thông thường là các nội dung chính trị xã hội.
- ở những phương trời khác nhau, vẫn có những nhà triết học, mỹ học, những nhà nghiên cứu văn học tiếp tục phát huy một cách sáng tạo những giá trị đích thực của chủ nghĩa Marx, đưa những luận điểm tiến bộ của những nhà kinh điển lên một chiều cao lý thuyết mới.
- Và như vây, khi văn học được giải phóng khỏi sự phản ánh cơ học hiện thực thì một mặt, cho phép mọi phương thức phản ánh đều có thể tự do phát triển, có giá trị như nhau từ chủ nghĩa hiện thực của cái giống như thật (kiểu Balzac) đến chủ nghĩa hiện thực huyền ảo (kiểu Kafka, Marquez)[18] và mặt khác , quan trọng hơn, nó chỉ ra con đường đích thực của nhà nghiên cứu đến với tác phẩm.
- Trong phần trên, chúng tôi đã trình bày về cuộc khủng hoảng của nghiên cứu lịch sử văn học phương Tây trong nửa đầu thế kỷ XX.
- Husserl khởi xướng, Mỹ học tiếp nhận muốn giải quyết những bế tắc về phương pháp luận của nghiên cứu lịch sử văn học bằng việc đặt người đọc vào trung tâm của tiến trình văn học.
- Đóng góp lớn nhất của mỹ học tiếp nhận là giải quyết được vấn đề nan giải của lịch sử văn học trong việc thiết lập những mối dây liên hệ giữa những thời đại văn học.
- Tác phẩm văn học không phải là một thực thể bất biến, phi thời gian, biệt lập, nó là một sản phẩm mang tính xã hội được sinh ra từ cuộc đối thoại giữa nhà văn và thời đại của anh ta.
- Nảy sinh từ một thời điểm lịch sử cụ thể, tác phẩm văn học bị quy định bởi hệ chuẩn mực mang tính xã hội đó (cái mà Jauss gọi là “tầm đón nhận”- horizon d’ attent).
- Chính nó là bộ phận cấu thành truyền thống văn học.
- Nghiên cứu lịch sử văn học trên một bình diện cũng buộc phải đặt nhiệm vụ nghiên cứu chính tầm đón nhận đó.
- Tuy vậy, mặt khác, cũng chính thông qua việc tác động, thay đổi đến tầm đón nhận mà người ta có thể nhận ra giá trị, ý nghĩa cách mạng làm thay đổi ý thức thời đại của những tác phẩm lớn đối với tiến trình văn học.
- Đó chính là bình diện nối một tác phẩm quá khứ đối với đời sống văn học hiện tại.
- Thông qua việc tác động đến tầm đón nhận mà người ta có thể hiểu được việc một tác phẩm dù thuộc những thời đại quá khứ vẫn tiếp tục chi phối đời sống văn học hiện tại..
- Chúng tôi không có tham vọng thống nhất các lý thuyết để đưa ra một thứ “Lý thuyết thống nhất lớn” (giống như trong vật lý học) của văn học.
- Công việc của chúng tôi chỉ là kết hợp các lý thuyết để giải quyết một đối tượng có giới hạn của văn học sử: tự sự nghệ thuật trong ba thập niên đầu thế kỷ XX..
- ở trên, chúng tôi đã trình bày những tiền đề lý thuyết được xác lập từ một số trường phái nghiên cứu văn học và mỹ học trong thế kỷ XX.
- Như đã trình bày, kể từ công trình lịch sử văn học đầu tiên của Dương Quảng Hàm, việc nghiên cứu văn học Việt Nam trong giai đoạn giao thời nói chung và tự sự nghệ thuật trong giai đoạn giao thời nói riêng đã có được những thành tựu đáng kể.
- Mốc quan trọng nhất trong việc nghiên cứu giai đoạn văn học này, theo chúng tôi, là công trình- giáo trình Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời của hai giáo sư Trần Đình Hượu và Lê Chí Dũng.
- Kể từ công trình của hai Giáo sư Trần Đình Hượu và Lê Chí Dũng cho đến nay, liên tục xuất hiện nhiều công trình biên khảo và luận văn , luận án các cấp khảo sát văn học Việt Nam giai đoạn giao thời nói chung và tự sự nghệ thuật trong giai đoạn giao thời nói riêng.
- Có lẽ ngoại trừ phần tư liệu về giảng dạy văn học trong nhà trường Pháp Việt trong những năm đầu thế kỷ, không một phần tư liệu nào về tự sự nghệ thuật đầu thế kỷ hiện còn trống.
- Không chỉ những luận văn, luận án khảo sát văn học Việt Nam giai đoạn giao thời mà hầu như tuyệt đại bộ phận những công trình văn học sử sau 1945 đều bị ám ảnh bởi một hệ lý thuyết : phương pháp sáng tác.
- Những khái niệm như chủ nghĩa (mà sau này được điều chỉnh thành trào lưu, khunh hướng) hiện thực, lãng mạng được áp dụng một cách phổ biến vào văn học Việt nam.
- Nếu như trong giai đoạn tiêu chí phương pháp sáng tác cũng không cho phép nhận chân diện mạo và những quy luật phát triển của văn học Việt Nam thì trong giai đoạn thời kỳ phôi thai của văn học hiện đại tiêu chí phương pháp sáng tác càng không thể đảm bảo cho một cái nhìn chính xác về đối tượng.
- Nếu sử dụng tiêu chí phương pháp sáng tác sẽ không thể thấy hết được ý nghĩa cách mạng của một tác phẩm như Tố Tâm (Hoàng Ngọc Phách) trên tiến trình văn học dân tộc.
- sẽ thấy Tố Tâm báo hiệu cho một phương thức tiếp cận hiện thực , một cái nhìn mới về thế giới và yếu tố đó có ý nghĩa mở đường cho toàn bộ văn học Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.
- ở một phía khác, nếu nhìn từ bình diện đề tài, có thể dễ dàng xếp tác phẩm của Hồ Biểu Chánh cũng như một loạt các tác giả văn học Nam Bộ khác (Nguyễn Chánh Sắt, Lê Hoàng Mưu.
- Trên một bình diện khác, một trong những cái bẫy mà người nghiên cứu văn học trong giai đoạn giao thời dễ mắc phải, đó là sự ám ảnh của những hệ phân loại hiện đại, Chúng tôi xin lấy một ví dụ: Luận án Truyện ngắn Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1932 của tác giả Nguyễn Thanh Sơn, bảo vệ tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I.
- Trước một cái tên như “đoản thiên tiểu thuyết”, tác giả đã liên hệ với một thể loại được dẫn trong hệ thống phân loại trong công trình lý luận văn học của N.A.
- Trên thực tế, thứ nhất hệ thống thể loại bao gồm tám thể loại nhỏ (anh hùng ca, trường ca, trường ca tự sự- trữ tình, tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, đoản thiên tiểu thuyết, ký) là hệ thống hầu như chỉ gắn với thực tế văn học Nga.
- Trong văn học các nước nói tiếng Pháp hoặc các nước nói tiếng Anh , hoàn toàn không tồn tại hệ phân loại này[23].
- Như vậy, rõ ràng tính đặc thù của giai đoạn giao thời đòi hỏi người nghiên cứu phải dám vượt qua những định kiến được xác lập từ những hệ thống lý luận được xác lập từ thực tế văn học hiện đại hoặc những nền văn học ngoại lai...
- Chúng tôi đã nói về sự hạn chế của việc sử dụng những tiêu chí ngoại lai hoặc hiện đại để đánh giá văn học quá khứ.
- Vậy đâu là con đường dẫn đến ý nghĩa có tính lịch sử của những thể loại văn học? Trong công trình Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học văn học, H.
- Bởi vậy, đứng trước thực tế là một hiện tượng văn học trong quá khứ (thể loại), công việc của người nghiên cứu không phải là dùng những hệ lý luận hiện đại để áp vào thực tế văn học sử mà phải tìm cách khôi phục được cái lôgich chi phối sự ra đời, sự hình thành của hiện tượng văn học đó.
- Lôgich đó bao gồm hai bình diện: hệ chuẩn mực mang tính cộng đồng về văn học và ý đồ nghệ thuật của nhà văn.
- Chính thứ Ngôn ngữ chung đó sẽ phản ánh ý nghĩa có tính lịch sử của một hiện tượng văn học.
- Có một số thành tố cấu thành nên thứ Ngôn ngữ chung đó: quan niệm về cái được coi là văn học và ý nghĩa của việc sáng tác văn học, quan niệm về thể loại và lôgich phân chia thể loại đặc thù của mỗi thời đại.
- Điều này phản ánh toàn bộ sự rạn nứt của tư duy văn học truyền thống và sự hình thành một tư duy nghệ thuật mới khẳng định sự tồn tại mang tính độc lập và có tính nghệ thuật cao của văn học.
- Như vậy, việc khảo sát những dấu hiệu của tư duy nghệ thuật đặc trưng của một thời đại sẽ cho phép không chỉ nhận ra ý nghĩa đích thực của một thể loại trong lịch sử , ẩn sau sự phức tạp của hệ thống tên gọi thể loại, đồng thời, cho thấy cả những quy luật chi phối sự vận động của một giai đoạn văn học.
- Đặc biệt, khi ý thức rằng giai đoạn giao thời là giai đoạn tái cấu trúc nền văn học mà nòng cốt của quá trình vận động là sự phân chia, sự định hình, những mầm mống khởi đầu thì sự khảo sát tư duy nghệ thuật lại càng cần thiết..
- Đứng về nguồn gốc, giai đoạn ba mươi năm đầu thế kỷ XX là giai đoạn tái cấu trúc một nền văn học hiện đại trên cơ sở diễn ra đồng thời cả hai quá trình: đổi mói nghệ thuật truyền thống và du nhập bản địa hóa mô hình ngoại lai.
- Tuy nhiên, điều cần nhấn mạnh là sự biến dạng và tác động lẫn nhau của cả truyền thống văn học bản địa và những ảnh hưởng ngoại lai[25].
- Đây cũng chính là một tiêu chí đánh giá vị trí của một tác phẩm trong tiến trình văn học sử.
- [2] Mặc dù kịch liệt chống đối lại việc dựng lên các “phả hệ “ giản đơn và tùy tiện của lịch sử văn học nhưng theo chúng tôi, yêu cầu nhìn nhận lịch sử văn học như là một quá trình thống nhất và liên tục vẫn là một yêu cầu bắt buộc đối với nghiên cứu lịch sử văn học..
- Chắc chắn sẽ không thể có một nền khoa học phát triển nếu không được xây dựng trên những thành tựu lý thuyết vững chãi, trong khi đó, lý thuyết lại là khâu chậm phát triển nhất trong nghiên cứu văn học ở nước ta hiện nay..
- [4] Bản dịch tiếng Việt của Trương Đăng Dung trên tạp chí Văn học nước ngoài số 1 năm 2002..
- [5] Dẫn theo Chủ nghĩa cấu trúc và văn học , Trịnh Bá Đĩnh, NXB Văn học và Trung tâm nghiên cứu Quốc học, 2002.
- [10] Có thể nhận thấy vang vọng của quy luật này trong công trình Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời của các nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng..
- [11] Xem Suy nghĩ về phương pháp luận lịch sử văn học.
- Lốt man, trong sách Chủ nghĩa cấu trúc và văn học , NXB Văn học, Trung tâm Quốc học, 2002..
- [25] Xin xem bài viết của chúng tôi Sự thẩm thấu của một số mô hình tiểu thuyết phương Tây vào thực tế Văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX công bố trên Tạp chí Hội nhà văn tháng 6 năm 2002.