« Home « Kết quả tìm kiếm

Trầm cảm ở người bệnh điều trị Methadone và Buprenorphine tại một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam: tỷ lệ và các yếu tố liên quan


Tóm tắt Xem thử

- Điều trị nghiện CDTP bằng các thuốc thay thế như Methadone (MMT) hay Buprenorphine (BUP) là phương pháp đã được chứng minh mang lại hiệu quả cao và được khuyến cáo sử.
- 1 Chương trình điều trị.
- năm 2008 tới nay đã mang lại rất nhiều lợi ích và hiệu quả trong việc làm giảm tỷ lệ sử dụng CDTP, cũng như giảm tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS, đồng thời nâng cao chất lượng cuộc sống của người bệnh.
- Mặc dù chương trình điều trị nghiện CDTP bằng Methadone ở Việt Nam đã được triển khai sâu rộng và thành công, vẫn còn có rất nhiều.
- thách thức và trở ngại.
- Vấn đề đáng lo ngại nhất chính là việc tiếp tục sử dụng heroin và ngừng tham gia điều trị.
- Đáng chú ý là cả tỷ lệ bỏ điều trị và tái sử dụng đều được ghi nhận tăng cao hơn ở những người bệnh có các rối loạn tâm thần.
- Trong những rối loạn tâm thần ở người nghiện CDTP, trầm cảm là rối loạn thường gặp nhất.
- 4 Trầm cảm cũng là vấn đề phổ biến ở những người điều trị nghiện CDTP bằng Methadone với tỷ lệ dao động từ 19 – 74%.
- 5 Người bệnh điều trị.
- Methadone mắc trầm cảm có tỷ lệ cao hơn của tái sử dụng CDTP, sử dụng chất ma túy khác và do đó làm giảm hiệu quả điều trị, đã được báo cáo trong nhiều nghiên cứu.
- 6–8 Các yếu tố liên quan với trầm cảm ở người bệnh điều trị methadone là thất nghiệp, trình độ học vấn.
- 2021 thấp, sử dụng rượu, cần sa và đã từng có tự sát.
- 5,9,10 Việc nhận diện được trầm cảm và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ và điều trị.
- cho người bệnh mắc trầm cảm đã cho thấy làm tăng cường hiệu quả điều trị nghiện CDTP.
- Nguyễn Thu Trang và cộng sự (2016) cho thấy tỷ lệ trầm cảm ở bệnh nhân điều trị CDTP tại Hà.
- Nội là 25,2%.
- 12 Các nghiên cứu này đã cho thấy các tỷ lệ trầm cảm rất khác biệt, không thống nhất và các nghiên cứu này đều thực hiện ở trên những bệnh nhân điều trị.
- Từ tháng 3 năm 2019, chương trình điều trị.
- nghiện CDTP bằng Buprenorphine đã bắt đầu được điều trị thí điểm tại 3 tỉnh miền Núi phía Bắc là Điện Biên, Lai Châu và Sơn La.
- Lý do lựa chọn 03 tỉnh này vì đây là những tỉnh có tiềm năng người bệnh có thể tham gia chương trình điều trị Buprenorphine theo kế hoạch đăng ký với Cục phòng chống HIV/AIDS, bên cạnh đó 03 tỉnh này cũng có những thuận lợi và thách thức trong quá trình triển khai chương trình điều trị Bupenorphine do sự khác biệt về.
- Điều trị buprenorphine có ưu điểm hơn so với điều trị methadone như hạn chế tương tác với các thuốc điều trị HIV, lao, hay giảm tần suất bệnh nhân phải tới cơ sở uống thuốc.
- Buprenorphine với đặc tính dược lý như một chất chống trầm cảm đã cho thấy làm giảm tỷ lệ trầm cảm ở những bệnh nhân được điều trị.
- hiện mắc trầm cảm và một số yếu tố liên quan ở 2 nhóm bệnh nhân điều trị nghiện CDTP bằng Methadone và Buprenorphine tại ba tỉnh triển khai chương trình buprenorphine..
- Đối tượng nghiên cứu là người bệnh vào chương trình điều trị nghiện CDTP bằng thuốc thay thế Methadone hoặc Buprenorphine tại các cơ sở điều trị Methadone tại 3 tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Sơn La.
- 1) Người bệnh từ 16 tuổi;.
- Tiêu chuẩn loại trừ là người bệnh không có khả năng hiểu hoặc trả lời câu hỏi của nghiên cứu viên..
- Tất cả các người bệnh MMT và BUP đủ tiêu chuẩn tham gia nghiên cứu được cán bộ y tế tại cơ sở mời tham gia vào nghiên cứu..
- Nghiên cứu tiến hành thu thập số liệu vào tháng 12/2019..
- Lai Châu: 5 cơ sở điều trị là cơ sở tại Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh Lai Châu, Trạm y tế.
- Điện Biên: 2 cơ sở điều trị là cơ sở tại Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh Điện Biên và Trung tâm y tế huyện Điện Biên..
- Sơn La: 2 cơ sở điều trị là cơ sở tại Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh Sơn La và Trung tâm y tế huyện Mai Sơn..
- Biến số nghiên cứu bao gồm: đặc điểm nhân khẩu xã hội (tuổi, giới tính), đặc điểm sử dụng chất (tuổi sử dụng lần đầu CDTP, số năm sử dụng CDTP trước khi vào điều trị, sử dụng các chất ma túy khác:.
- tình hình điều trị methadone và buprenorphine (thời gian điều trị, liều điều tri.
- test nước tiểu, và tình trạng nhiễm HIV..
- Người bệnh được sàng lọc trầm cảm bằng thang điểm PHQ-2.
- thang điểm được sử dụng phổ biến và có giá.
- 14 Những người bệnh có điểm PHQ-2 ≥ 2 được coi là có trầm cảm..
- Kỹ thuật (Quy trình) và công cụ thu thập thông tin..
- Các giá trị trung bình/trung vị và tỷ lệ phần trăm sẽ được sử dụng để mô tả các đặc điểm của hai nhóm người bệnh.
- Nghiên cứu đã thu nhận được 119 người bệnh điều trị Methadone (46 ở Điện Biên, 17 ở Sơn La, và 56 ở Lai Châu) và 225 người bệnh điều trị Buprenorphine (84 ở Điện Biên, 41 ở Sơn La, và 100 ở Lai Châu).
- Các đặc điểm nhân khẩu xã hội học, đặc điểm sử dụng chất và đặc điểm điều trị của nhóm bệnh nhân trong nghiên cứu được trình bày trong bảng1..
- tuổi trung bình là 37 tuổi.
- Thời gian điều trị trung bình là 4 tháng.
- Hơn ½ số đối tượng điều trị methadone chưa.
- trong khi đó, phần lớn người bệnh điều trị buprenorphine dùng liều ≥ 16mg/ngày (65.
- Làm ruộng .
- Thời gian điều trị.
- Điều trị 0 - 3 tháng .
- 0,001 Điều trị 3 - 6 tháng .
- Điều trị 6 - 9 tháng Liều thuốc điều trị.
- 2021 (tuổi), số năm sử dụng trung bình là 13 (năm).
- tỷ lệ sử dụng methamphetamine là 15%..
- Có sự khác biệt giữa 2 nhóm về thời gian điều trị (p <.
- Nhóm bệnh nhân điều trị Buprenorphine có tỷ lệ dương tính với heroin trong test nước tiểu thấp hơn (p <.
- 0,001), nhưng có tỷ lệ bỏ liều trên 5 lần liên tục cao hơn (p = 0,021) so với nhóm bệnh nhân điều trị bằng Methadone.
- 2 nhóm bệnh nhân không có sự khác biệt về tuổi, giới, dân tộc, thu nhập, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân, thời gian điều trị trung bình, tình trạng HIV.
- Vài ngày .
- Tỷ lệ trầm cảm đánh giá theo thang điểm PHQ-2 trong nghiên cứu của chúng tôi là 7,3%, trong đó tỷ lệ trầm cảm trong nhóm bệnh nhân điều trị Buprenorphine cao hơn so với tỷ lệ trong nhóm bệnh nhân điều trị Methadone (p = 0,002).
- Tỷ lệ trầm cảm trong nhóm bệnh nhân điều trị từ 6 – 9 tháng là.
- thấp nhất và tỷ lệ trầm cảm trong nhóm 3-6 tháng cao nhất, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p = 0,183).
- Về đặc điểm của triệu chứng trầm cảm, tỷ lệ người bệnh buprenorphine có triệu chứng mất/ít hứng thú làm việc từ vài ngày trở lên cao hơn đáng kể so với tỷ lệ này trên người bệnh methadone (15,6% so với 3,4%, p = 0,003).
- Làm nông 1 1.
- Thuốc điều trị.
- Thời gian điều trị nghiện.
- Điều trị 0-3 tháng 1 1.
- Điều trị 3-6 tháng .
- Điều trị 6-9 tháng .
- Mô hình cho thấy yếu tố ảnh hưởng đến trầm cảm là thuốc điều tri ̣người bệnh điều trị bằng Buprenorphine có nguy cơ trầm cảm gấp 6,2 lần so với điều trị bằng Methadone..
- Sự nhận thức rõ ràng hơn về mức độ phổ biến của các vấn đề sức khỏe tâm thần đồng diễn, cụ thể ở đây là trầm cảm ở người bệnh điều trị nghiện CDTP là rất quan trọng.
- Điều này là nền tảng cho việc phát triển và triển khai các dịch vụ hỗ trợ cho những người bệnh này nhằm thúc đẩy sự tham gia lâu dài của họ trong chương trình, hạn chế việc tái sử dụng ma túy, cải thiện sức khỏe tâm thần, nâng cao chất lượng cuộc sống và tái hòa nhập xã hội..
- tương đối của trầm cảm trong những người bệnh điều trị nghiện CDTP (7,3.
- trong đó, tỷ lệ trầm cảm ở nhóm điều trị Methadone là.
- 1,7%, nhóm điều trị Buprenorphine là 10,2%..
- Điều này cũng tương đồng với nhận xét của các nghiên cứu khác trên thế giới rằng tỷ lệ trầm cảm tại thành phố cao hơn nông thôn, liên quan đến một số yếu tố trung gian khác như tình trạng độc thân hay ly dị, không có việc làm cao hơn ở thành phố.
- Liên quan đến thuốc điều trị, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng tỷ lệ trầm cảm trong nhóm người bệnh điều trị Buprenorphine (10,2%) cao hơn một cách có ý nghĩa so với tỷ lệ được tìm thấy trong nhóm người bệnh điều trị Methadone (1,7.
- Nghiên cứu của Pani và cs so sánh hiệu quả.
- điều trị của Methadone và Buprenorphine đã.
- cho thấy việc điều trị bằng Methadone đã.
- 18 Một số nghiên cứu khác trên thế giới không cho thấy sự khác biệt giữa tỷ lệ trầm cảm trong nhóm bệnh nhân điều trị bằng Methadone và.
- 20 Một nghiên cứu tổng quan hệ thống chỉ ra rằng Buprenorphine có hiệu quả trong việc điều trị rối loạn trầm cảm, trầm cảm kháng thuốc và ý tưởng tự sát.
- 13 Một nghiên cứu khác cũng báo cáo sự cải thiện nhanh chóng trầm cảm ở người bệnh nghiện CDTP được điều trị bằng liều thấp Buprenorphine (2-8mg).
- 8 Trong nghiên cứu này, tỉ lệ trầm cảm nhóm Buprenorphine cao hơn đáng kể, điều này có thể do những lý do sau đây:.
- 2) Những người điều trị buprenorphine có thể coi là những người vào điều trị cuối cùng và thường những người này gặp khó khăn nhiều hơn những người có thể vào điều trị.
- sớm do trầm cảm cũng là một rào cản đối với tiếp cận điều trị..
- nghiên cứu của chúng tôi là nghiên cứu cắt ngang và không giúp cho việc kết luận nhân – quả, do đó việc nêu ra ý kiến về sự ưu tiên sử dụng Buprenorphine hay Methadone để sử dụng cho người bệnh nghiện CDTP có trầm cảm là không phù hợp.
- Tuy nhiên, điều quan trọng là việc điều trị nghiện CDTP.
- 11,19,21 Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ trầm cảm ở nhóm người bệnh điều trị từ 6 - 9 tháng là thấp nhất (2,9.
- Việc điều trị nghiện CDTP bằng các thuốc thay thế đã.
- còn giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh và tăng tính ổn định của xã hội, điều này là những yếu tố thuận lợi cho việc hồi phục trầm cảm.
- khác ảnh hưởng tới nguy cơ trầm cảm trên người bệnh điều trị nghiện CDTP như: tình trạng hôn nhân, thu nhập, nghề nghiệp, thời gian điều trị như đã được báo cáo trong các nghiên cứu khác.
- 9,16 Điều này có thể cần được kiểm chứng thêm trong những nghiên cứu liên quan khác..
- Nghiên cứu của chúng tôi đã cho thấy trầm cảm là thực trạng đáng quan tâm đang diễn ra trên những người bệnh điều trị nghiện CTDP bằng các thuốc thay thế, và điều này gợi ý rằng cần phải có những biện pháp để phát hiện và quản lý trầm cảm nhằm tối ưu hóa chất lượng điều trị.
- Thứ hai, công cụ đánh giá trầm cảm được sử dụng trong nghiên cứu này là PHQ-2..
- PHQ-2 là thang điểm được dùng để sàng lọc trầm cảm, và bao gồm 2 tiêu chí, do đó hạn chế trong việc mô tả các đặc điểm trầm cảm ở người bệnh..
- Nghiên cứu của chúng tôi đã cho thấy một tỷ lệ tương đối của trầm cảm ở những người bệnh điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện..
- Trầm cảm cũng như các rối loạn tâm thần khác được coi là bệnh đồng diễn của nghiện chất dạng thuốc phiện và có ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả điều trị của người bệnh.
- Việc nhận diện điều này gợi ý rằng chúng ta cần có những dịch vụ hỗ trợ phù hợp để có thể.
- nâng cao hiệu quả của chương trình điều trị.
- Nguy cơ rối loạn tâm thần ở bệnh nhân điều trị methadone và một số yếu tố liên quan.