« Home « Kết quả tìm kiếm

Trao đổi về nhiệm vụ của khoa học xã hội nhân văn và khoa học xã hội nhân văn quân sự trong tình hình mới


Tóm tắt Xem thử

- TRAO ĐỔI VỀ NHIỆM VỤ CỦA KHOA HỌC XÃ HỘI NHÂN VĂN TRAO ĐỔI VỀ NHIỆM VỤ CỦA KHOA HỌC XÃ HỘI NHÂN VĂN VÀ KHOA HỌC XÃ HỘI NHÂN VĂN QUÂN SỰ TRONG TÌNH HÌNH MỚI ThS.
- LÊ CỬ-LÊ PHONG Viện Lịch sử quân sự Việt Nam Ở nước ta, khoa học xã hội nhân văn (KHXHNV) có chức năng nghiên cứu cơ bản, toàn diện về xã hội và con người Việt Nam, cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách xây dựng, phát triển đất nước, góp phần nâng cao trình độ dân trí, tham gia thẩm định các chương trình, dự án phát triển kinh tế- xã hội.
- đáp ứng các yêu cầu phát triển của đất nước.
- Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, sau 25 năm, tình hình đất nước có nhiều biến đổi sâu sắc về mọi mặt.
- Những thành tựu đạt được đã đưa đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện, quốc phòng- an ninh được giữ vững, vị thế của Việt Nam ngày càng cao trên trường quốc tế.
- Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, thời cơ và thuận lợi, Việt Nam cũng đang phải đối phó với nhiều thách thức như: kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh chưa cao.
- cơ chế chính sách chưa đồng bộ, chưa tạo động lực mạnh để phát triển.
- Trong khi đó, tình hình thế giới cũng có nhiều biến động như: nền kinh tế thế giới đang chuyển sang kinh tế tri thức.
- các nước đang phát triển có cơ hội thu hẹp khoảng cách, đồng thời cũng đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn và bị phụ thuộc vào các nước phát triển.
- các cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố,v.v.
- Trước sự biến đổi mạnh mẽ của tình hình trong nước và thế giới đang đặt ra hàng loạt vấn đề mới, bức xúc đòi hỏi KHXHNV nước ta phải đi sâu nghiên cứu, lý giải có căn cứ khoa học nhằm góp phần phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
- Nhấn mạnh yếu tố này, Báo cáo Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội IX chỉ rõ: “KHXHNV phải hướng về việc hỏi đáp các vấn đề lý luận và thực tiễn, dự báo các xu thế phát triển, cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng con người, phát huy những di sản văn hóa dân tộc, sáng tạo những giá trị văn hoá mới của Việt Nam”.
- Đại hội X của Đảng một lần nữa nhấn mạnh: Phát triển khoa học xã hội để “tiếp tục góp phần làm sáng tỏ những nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, giải đáp những vấn đề mới của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- dự báo tình hình và xu thế phát triển của thế giới, khu vực và trong nước.
- cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước”.
- Để hiện thực hoá những chủ trương, đường lối của Đảng, nhiệm vụ của KHXHNV trong tình hình mới cần tập trung làm rõ những vấn đề chủ yếu sau: Thứ nhất: Tiếp tục làm sáng tỏ hơn lí luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta phù hợp với điều kiện của đất nước, con người, xã hội Việt Nam và thích ứng với những thay đổi của bối cảnh quốc tế trên cơ sở lấy chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống của văn hoá dân tộc, tham khảo nhưng bài học kinh nghiệm của các nước, tổng kết một cách sâu sắc, toàn diện và có hệ thống thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước.
- Thứ hai: Nghiên cứu làm rõ bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề đổi mới và tạo lập đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Đề xuất giải pháp cho một số lĩnh vực có tính chất quyết định trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, năng lực tham gia vào các định chế tài chính- tiền tệ quốc tế, nghiên cứu con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Nghiên cứu sự biến đổi của cơ cấu xã hội và quản lý sự phát triển xã hội ở nước ta trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Thứ ba: Nghiên cứu nhằm đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta, đề xuất giải pháp thực hiện và phát huy dân chủ, củng cố vai trò của Đảng cầm quyền, cải cách bộ máy hành chính Nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc tạo lập và phát triển đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Thứ tư: Nghiên cứu cơ bản, toàn diện và có hệ thống về tiến trình lịch sử và diện mạo của nền văn hoá Việt Nam với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, sáng tạo những giá trị văn hoá mới của Việt Nam, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Thứ năm: Nghiên cứu cơ bản về con người và nguồn nhân lực với tư cách là chủ thể xã hội, có trình độ học vấn, mang đậm tính nhân văn và các giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, tiếp thu tinh hoa của văn hoá nhân loại, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Thứ sáu: Nghiên cứu bản chất, đặc điểm, nội dung của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và sự phát triển của kinh tế tri thức trong thế kỷ XX và những năm đầu thế kỉ XXI, trong đó chú trọng mặt xã hội và sự tác động của cuộc cách mạng này đến tiến trình phát triển của Việt Nam.
- Kết hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của khoa học xã hội nhân văn với khoa học tự nhiên và công nghệ trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế- xã hội và quốc phòng- an ninh của đất nước.
- Thứ bảy: Nghiên cứu các xu thế phát triển chủ yếu của thế giới và khu vực những thập niên đầu thế kỷ XXI.
- Dự báo xu thế phát triển chủ yếu của khu vực và thế giới, tranh thủ tối đa thời cơ và lợi thế, phòng ngừa và tránh được các bất lợi, rủi ro, tập trung mọi nguồn lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa tư bản hiện đại trong bối cảnh toàn cầu hoá, sự tác động về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, quân sự của chủ nghĩa tư bản hiện đại, các chủ thể mới trong quan hệ quốc tế.
- có ảnh hưởng trực tiếp đến chiến lược phát triển của Việt Nam nhằm định rõ vị thế, vai trò, bước đi, chính sách hội nhập kinh tế của Việt Nam vào các thể chế toàn cầu và khu vực.
- Thứ tám: Tiến hành điều tra cơ bản, tổng hợp liên ngành trên những địa bàn và lĩnh vực kinh tế- xã hội trọng điểm nhằm tổng kết thực tiễn làm cơ sở cho công tác nghiên cứu lý luận, cung cấp luận cứ khoa học cho chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của cả nước và các ngành, vùng trọng điểm.
- Thứ chín: Nghiên cứu cơ bản, toàn diện và có hệ thống những vấn đề lí thuyết của các chuyên ngành KHXHNV.
- Tổng kết và đánh giá sự phát triển của KHXHNV Việt Nam trong thế kỷ XX, định hướng phát triển trong thế kỷ XXI nhằm nâng cao năng lực dự báo, khả năng phát hiện và lí giải những vấn đề thực tiễn do đất nước đặt ra, góp phần nâng cao chất lượng và trình độ nghiên cứu lí luận.
- Trong lĩnh vực quân sự, KHXHNVQS cũng có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp đổi mới đất nước.
- Nhiều kết luận của các chuyên ngành KHXHNVQS được dùng làm cơ sở để hoạch định các chủ trương, phương hướng, nội dung, biện pháp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- KHXHNVQS là bộ phận hợp thành của KHXHNV, là mảng lý luận đặc thù của các KHXHNV nghiên cứu lĩnh vực quân sự.
- Đối tượng nghiên cứu của các KHXHNVQS không phải là tất cả các khía cạnh của lĩnh vực quân sự mà chỉ tập trung nghiên cứu khía cạnh chính trị- xã hội của lĩnh vực quân sự.
- Cụ thể là nghiên cứu về con người, về mối quan hệ giữa con người với con người trong lĩnh vực quân sự.
- quan hệ giữa con người với trang bị kỹ thuật quân sự và môi trường quân sự, v.v....
- Hoạt động quân sự gắn liền với việc chuẩn bị và tiến hành chiến tranh.
- Ban đầu, chiến tranh và các hoạt động quân sự còn có qui mô nhỏ bé, việc bảo đảm cho các hoạt động quân sự và tiến hành chiến tranh chưa phức tạp thì các KHXHNV đương thời như: Triết học, chính trị - kinh tế học, sử học, tâm lý học.
- vẫn đủ sức giải đáp các hiện tượng và quá trình xảy ra trong lĩnh vực quân sự và tiến hành chiến tranh, và khi đó chưa xuất hiện các KHXHNVQS cụ thể.
- Chỉ khi các hoạt động quân sự và chiến tranh trở nên phức tạp, gắn liền với qui mô to lớn và tính chất hiện đại của nó, thì các KHXHNVQS cụ thể mới xuất hiện, trở thành những ngành khoa học độc lập.
- Hiện nay, chúng gồm một số ngành như: Học thuyết Mác- Lênin về chiến tranh và quân đội, Kinh tế quân sự, Tâm lý học quân sự, Giáo dục học quân sự, Sử học quân sự,v.v.
- Tuy nhiên, so với yêu cầu của cách mạng, của công cuộc xây dựng quân đội và xây dựng nền quốc phòng toàn dân, sự phát triển của các chuyên ngành KHXHNVQS vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập.
- Sự biến đổi của tình hình thế giới và trong nước cũng như yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh.
- yêu cầu nâng cao chất lượng tổng hợp của các lực lượng vũ trang, lấy chất lượng chính trị làm cơ sở trong bối cảnh cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp hiện nay trên thế giới và ở nước ta tiếp tục diễn ra quyết liệt, phức tạp đang đặt ra cho các KHXHNVQS nhiều vấn đề mới mẻ và trọng trách nặng nề.
- đòi hỏi các chuyên ngành này phải có những nghiên cứu cơ bản, toàn diện, hệ thống và chuyên sâu để đủ sức cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối quân sự, quốc phòng toàn dân và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, đảm bảo cho đất nước sẵn sàng đánh thắng mọi kiểu chiến tranh mà các thế lực thù địch dám mạo hiểm phát động nhằm chống lại Việt Nam.
- Trước đòi hỏi của tình hình mới, trong thời gian tới, nhiệm vụ của KHXHNVQS cần tập trung nghiên cứu, làm sáng tỏ những nội dung chủ yếu sau: Thứ nhất: Tiếp tục làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, phát triển kinh tế tri thức, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- làm rõ tác động của những biến đổi kinh tế- xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đến sự nghiệp củng cố nền quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
- Trên cơ sở đó, cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoạch định chính sách của Đảng, Nhà nước và quân đội đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
- Thứ hai: Dự báo về những đặc điểm và phương hướng chuẩn bị chiến tranh nhân dân đánh thắng các kiểu chiến tranh xâm lược của các thế lực thù địch.
- về khả năng động viên chính trị- tinh thần của xã hội (nhân dân và quân đội) trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trước các tình huống chiến tranh.
- Thứ ba: Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về Đảng lãnh đạo quân đội trong tình hình mới.
- những vấn đề lý luận và bài học kinh nghiệm lịch sử trong xây dựng quân đội ta về chính trị và tiến hành công tác Đảng, công tác chính trị.
- Trên cơ sở đó nghiên cứu các giải pháp hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo quân đội, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của công tác Đảng, công tác chính trị.
- Thứ tư: Nghiên cứu, chuẩn bị các giải pháp tiến công chính trị chống lại các âm mưu, thủ đoạn của địch hòng phi chính trị hoá quân đội ta.
- Thứ năm: Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng đời sống văn hoá tinh thần trong quân đội và những vấn đề đạo đức quân nhân, góp phần xây dựng quân đội về chính trị từ khía cạnh văn hoá, đạo đức.
- Thứ sáu: Nghiên cứu cơ bản, toàn diện, có hệ thống những vấn đề lý thuyết của các chuyên ngành KHXHNVQS.
- Làm sáng tỏ những khái niệm, phạm trù, quy luật và tính quy luật của mỗi chuyên ngành, góp phần phát triển các học thuyết về chiến tranh- quân đội, kinh tế quân sự mác xít, công tác Đảng, công tác chính trị, tâm lý học quân sự, giáo dục học quân sự, xã hội học quân sự, văn hoá học quân sự, đạo đức học quân sự.
- Có thể nói, KHXHNV nói chung và KHXHNVQS nói riêng đã và đang góp phần to lớn vào sự nghiệp nghiệp đổi mới và dựng xây nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Trong tình hình mới, với những cách làm và bước đi phù hợp, chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng KHXHNV và KHXHNVQS sẽ còn đóng góp nhiều hơn nữa cho đất nước.