« Home « Kết quả tìm kiếm

Từ cuộc tranh luận trong “kinh tế học vĩ mô về kiều hối” đến những gợi mở cho thực tiễn ở Việt Nam


Tóm tắt Xem thử

- Từ cuộc tranh luận trong “kinh tế học vĩ mô về kiều hối”.
- Bài viết này là một nỗ lực thử tổng kết những nội dung cơ bản của một nhánh đang phát triển mạnh gần đây trong kinh tế học ứng dụng là “kinh tế học vĩ mô về kiều hối.” Việc hệ thống hoá nội dung trong nhánh lý thuyết này cho thấy dòng kiều hối tạo ra những hiệu ứng vừa tích cực lẫn tiêu cực đến nền kinh tế..
- Bài viết cũng tổng kết các nghiên cứu định lượng mới nhất về vấn đề này ở Việt Nam, và chỉ ra rằng ảnh hưởng của dòng kiều hối lên nền kinh tế nước ta phản ánh cả hai chiều hướng nêu trên.
- Trên cở sở tổng hợp những phát hiện từ các mô hình lý thuyết và thực nghiệm, tác giả đưa ra một số gợi ý chính sách nhằm phát huy những tác động tích cực của dòng kiều hối trong dài hạn..
- Khái niệm và khuynh hướng gần đây của kiều hối trên thế giới.
- Cuộc tranh luận trong “Kinh tế học vĩ mô về kiều hối.
- Những nghiên cứu gần đây về kiều hối ở Việt Nam.
- Những gợi mở về vấn đề kiều hối ở Việt Nam.
- Bảng 1 cho thấy tổng lượng kiều hối chảy vào Việt Nam qua các năm trong giai đoạn 1999-2006 trong mối tương quan với một số chỉ tiêu vĩ mô khác..
- Kiều hối a .
- Lượng kiều hối và một số chỉ tiêu vĩ mô, Việt Nam giá hiện hành, triệu USD).
- Trong năm 2007, lượng kiều hối lớn đến mức nó đã có tác động đáng kể đến việc điều hành chính sách tiền tệ và kinh tế vĩ mô ở nước ta..
- Thuật ngữ "kiều hối".
- Mục đích của bài viết này là khảo cứu những quan điểm khác nhau trên thế giới về vấn đề kiều hối và tác động của nó đến nền kinh tế vĩ mô.
- Phần thứ nhất đề cập đến khái niệm chung về kiều hối và khuynh hướng gần đây của nó trên thế giới.
- Phần hai, là phần chính của bài, trình bày các quan điểm khác nhau về ảnh hưởng kinh tế vĩ mô của kiều hối.
- Phần ba tóm lược những kết quả nghiên cứu căn bản gần đây về kiều hối ở Việt Nam.
- Ritzema (1999) “Kiều hối (international remittances) có thể được định nghĩa là “phần thu nhập của người lao động ở nước ngoài gửi về nước”..
- Một khuynh hướng lớn gần đây đang diễn ra trên thế giới là dòng kiều hối chảy về các nước đang phát triển tăng lên mạnh mẽ.
- Trong năm 2005, tổng lượng kiều hối chảy vào các nước đang phát triển được ghi nhận lên tới 170 tỷ USD, so với 32,2 tỷ năm 1996 (WB 2006).
- Dòng kiều hối tiếp tục giữ vị trí lớn thứ hai trong các dòng tài chính chảy vào các nước này, chỉ đứng sau FDI (WB 2004)..
- Thêm vào đó, dòng kiều hối có khuynh hướng ổn định nhất trong số các dòng tài chính chảy vào từ bên ngoài..
- Trong khi các dòng tài chính khác khá bất ổn định, và thậm chí còn có khuynh hướng giảm từ sau năm 2000, thì kiều hối vẫn tăng một cách vững chắc.
- Vì đặc điểm tích cực trên, kiều hối đã trở thành mối quan tâm của nhiều cơ quan Chính phủ và các tổ chức phát triển..
- Trong năm 2004, mười nước nhận kiều hối nhiều nhất đã chiếm tới một nửa toàn bộ dòng kiều hối toàn cầu.
- Ba nước nhận kiều hối hàng đầu là Ấn Độ, Trung Quốc và Mexico đã nhận tới 27% tổng lượng kiều.
- Những nước có lượng kiều hối lớn tính theo tương quan với GDP thường là những nước nhỏ và có truyền thống lâu dài tiếp nhận kiều hối..
- Tầm quan trọng tương đối của kiều hối thay đổi theo từng nhóm nước phân theo mức thu nhập bình quân đầu người.
- Nói tóm lại, kiều hối hiện nay là một vấn đề kinh tế quan trọng đối với nhiều nước trên thế giới.
- Tuy nhiên, tác động thực sự của kiều hối đến nền kinh tế của những nước tiếp nhận chúng như thế nào vẫn còn là đề tài của nhiều cuộc tranh luận trong giới học thuật.
- Mục đích của bài này là chỉ ra rằng, bên cạnh các mặt tích cực, kiều hối còn có thể gây ra những ảnh hưởng gián tiếp mang tính tiêu cực đối với nền kinh tế..
- Phần thứ hai là một nỗ lực tổng kết những nghiên cứu định lượng gần đây về kiều hối ở Việt Nam, nhằm chỉ ra rằng đã có những bằng chứng cho thấy, bên cạnh những ảnh hưởng tiêu cực, kiều hối có thể gây ảnh hưởng tiêu cực lên nền kinh tế.
- Cuộc tranh luận trong “Kinh tế học vĩ mô về kiều hối”.
- Sự tăng trưởng nhanh chóng của các nghiên cứu thực nghiệm cũng như lý thuyết về kiều hối đã định hình nên một nhánh kinh tế học về kiều hối.
- Như Bouhga-Hagbe (2004) nhận xét: “Các nghiên cứu về kiều hối có thể được chia làm hai mảng: mảng thứ nhất tập trung nghiên cứu động cơ gửi và cách sử dụng kiều hối, mảng thứ hai tập trung vào đánh giá tác động vĩ mô của kiều hối.” Nói cách khác, kinh tế học về kiều hối cũng được chia thành hai nhánh, kinh tế học vi mô và vĩ mô về kiều hối như trong kinh tế học nói chung.
- Tác giả cho rằng sự phát triển gần đây nghiêng về phía lập luận rằng kiều hối có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển, nơi thị trường tài chính thường không hoàn hảo.
- Do đó, kiều hối đóng vai trò như một phương tiện giúp nới lỏng ràng buộc tín dụng.
- Sự thay đổi về quan điểm đối với vai trò của kiều hối có tác dụng dịch chuyển quan điểm về di chuyển lao động nói chung, và định hình nên cái mà tác giả này gọi là “Kinh tế học mới về lao động di cư” (New Economics of Labor Migration)..
- Theo cách tiếp cận này, lượng kiều hối được bơm vào nền kinh tế có thể đóng vai trò như một cú sốc tăng chi tiêu trong các mô hình truyền thống.
- Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế mở, khi ta có thể áp dụng mô hình Mundel-Flemming dạng đơn giản với giá cả cố định và một hàng hoá hỗn hợp (composite good), kết quả của cú sốc kiều hối có thể không đơn giản.
- Do đó, tác động của kiều hối có thể trở nên phức tạp..
- Xét trên góc độ dài hạn hơn, vai trò của kiều hối đối với phát triển dài hạn đã tạo những cuộc tranh luận trong suốt vài thập kỷ qua.
- Điểm chính yếu ở đây là người tiếp nhận kiều hối sử dụng khoản tiền nhận được cho tiêu dùng trực tiếp hay là cho đầu tư sản xuất trong tương lai.
- Các tác giả cũng cho rằng kiều hối có thể góp phần làm giảm bất bình đẳng trong thu nhập và thông qua đó đóng góp vào tăng trưởng và phát triển kinh tế..
- Tương tự như sự phát triển của các nhánh khác trong kinh tế học, kinh tế học vĩ mô về kiều hối phát triển thông qua sự gặt hái kết quả nghiên cứu đan xen giữa lý luận và thực tiễn..
- Nhóm thứ nhất bao gồm các tác giả lạc quan về vai trò của kiều hối.
- Nhờ những đặc điểm đó, tác giả đặt nhiều kỳ vọng vào kiều hối với tư.
- Giuliano và Ruiz-Arranz (2005) lập luận rằng kiều hối có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhờ đóng vai trò như một nguồn thay thế cho nguồn tín dụng trên thị trường nội địa.
- Kết quả nghiên cứu thực nghiệm của họ cho thấy ảnh hưởng tăng trưởng của kiều hối phát huy tác dụng rõ nhất ở các nền kinh tế có thị trường tài chính còn kém phát triển.
- Bugamelli và Paternò (2005) cho rằng dòng kiều hối có thể giúp làm ổn định cán cân vãng lai của các nền kinh tế mới nổi, và nhờ thế giúp giảm khả năng tháo lui tư bản ồ ạt ở các nước này.
- León-Ledesma và Piracha (2004) phát triển một mô hình để nghiên cứu hiệu ứng tích cực của kiều hối trên thị trường lao động (tạo công ăn việc làm), và khảo sát thực trạng sử dụng kiều hối ở một loạt nước Đông Âu..
- Thêm vào đó, Bracking (2003) lập luận rằng một trong những ảnh hưởng có hại của kiều hối nằm ở chỗ những người không nhận kiều hối sẽ trở nên nghèo đi, không chỉ tương đối mà có thể là tuyệt đối, vì hiệu ứng lạm phát xuất hiện do những người nhận kiều hối tăng chi tiêu.
- Nói cách khác, những hộ gia đình nhận kiều hối làm xói mòn sức mua của những hộ không nhận kiều hối..
- Lập luận của họ dựa trên một mô hình kinh tế vi mô cho phép người ta dự đoán hành vi của hộ gia đình tiếp nhận kiều hối.
- Ngay cả niềm tin truyền thống rằng các dòng kiều hối thường đối nghịch với các vận động chu kỳ và do đó đóng vai trò như một nhân tố bình ổn (stabilizer) cũng bị thách thức..
- Thông qua việc sử dụng một panel bao gồm số liệu của 87 nước đang từ năm 1970 đến 2000, Buch và Kuckulenz (2004) phát hiện ra rằng các dòng kiều hối thực ra có đặc điểm khá tương đồng với các dòng vốn khác (như FDI và ODA), nhưng về tổng thể dòng kiều hối ổn định hơn.
- Thêm vào đó, Sayan (2006) chỉ ra rằng không có bằng chứng rõ ràng ủng hộ giả thuyết chống chu kỳ của các dòng kiều hối đối với nhóm nước trong nghiên cứu của mình.
- Một lần nữa, hành vi của dòng kiều hối dường như phụ thuộc vào đặc điểm của mỗi nước..
- Kể cả khi các dòng kiều hối có khuynh hướng đi ngược lại các chu kỳ, thì Chami et al.
- hình cân bằng tổng quát động ngẫu nhiên (stochastic dynamic general equilibrium model) để khảo sát tác động của các dòng kiều hối đi ngược chu kỳ trong việc hình thành chính sách tài khoá và tiền tệ, rồi sau đó xem xét các hiệu ứng tác động lên các biến thực và danh nghĩa trong môi trường nền kinh tế đang diễn biến theo chu kỳ.
- Nghiên cứu này cho thấy kiều hối làm tăng thu nhập khả dụng và tiêu dùng, và có tác dụng chống lại các cú sốc thu nhập, do đó làm tăng phúc lợi hộ gia đình.
- Tuy nhiên, kiều hối lại làm thay đổi mối tương quan giữa lao động và sản lượng.
- Tuy nhiên, do kiều hối đóng vai trò như một phần “bảo hiểm” chống lại cú sốc thu nhập giảm, nó đồng thời khiến cung lao động không tăng lên như kỳ vọng.
- Nhóm thứ ba bao gồm những người thận trọng với tác động hai chiều, hỗn hợp của kiều hối.
- Ví dụ, Glytsos (2002a) khảo sát tác động của kiều hối lên cán cân thanh toán, cán cân tiết kiệm-đầu tư và thay đổi cơ cấu của một số nước Địa trung hải.
- Sau đó, cũng tác giả này (Glytsos, 2002b) phát triển một mô hình kiểu Keynes để nghiên cứu các hiệu ứng vĩ mô của kiều hối.
- Kết quả cho thấy ảnh hưởng của kiều hối mang tính hỗn hợp và phụ thuộc vào đặc điểm của từng nước.
- Kapur (2003) thảo luận về những ảnh hưởng có thể của kiều hối trên cả hai mặt kinh tế và chính trị.
- (2003) đánh giá tác động của kiều hối lên thị trường lao động bằng cách liên kết hai hiệu ứng ngược chiều nhau: thứ nhất là hiệu ứng kiểu “căn bệnh Hà Lan,” hay giả thuyết cho rằng kiều hối đóng vai trò một loại bảo hiểm thất nghiệp và do đó làm tăng tỷ lệ thất nghiệp.
- thứ hai là hiệu ứng được cho là tích cực của kiều hối, nghĩa là kiều hối giúp nới lỏng ràng buộc tín dụng và do đó tạo công ăn việc làm.
- Nói tóm lại, vai trò của kiều hối vẫn đang là một đề tài thú vị cho các cuộc tranh luận của giới nghiên cứu.
- Rất khó có thể kết luận là kiều hối thuần tuý tốt hay thuần tuý xấu.
- Trong phần tiếp theo, chúng tôi điểm qua những nghiên cứu gần đây về kiều hối ở Việt Nam và tiếp đó là những bài học từ lý thuyết và kinh nghiệm trên thế giới..
- Anh (2005) thảo luận về tầm quan trọng của cộng đồng người Việt ở hải ngoại (Việt Kiều) với tư cách một nguồn đem lại kiều hối và đầu tư, cũng như tư bản con người và công nghệ.
- Tác giả này chỉ ra rằng, bên cạnh những cơ hội hấp dẫn từ một nền kinh tế đang phát triển nhanh và ngày càng được tự do hoá, các chính sách của Chính phủ nhằm khuyến khích việc nhận và sử dụng kiều hối là nguyên nhân chính khiến dòng kiều hối tăng vọt trong những năm qua..
- Nghiên cứu này cũng cung cấp một bản tổng kết mang tính cập nhật rất hữu ích về các quy định liên quan đến kiều hối ở Việt Nam..
- Tuy nhiên, trước thực tế quy mô lượng kiều hối ngày càng tăng nhanh và ảnh hưởng kinh tế của nó ngày càng rõ ràng, thì số lượng các nghiên cứu định lượng cho phép chúng ta hiểu rõ hơn về hiện tượng kinh tế này vẫn còn rất hạn chế..
- Trong một công trình mang tính tiên phong, Sakr (2006) sử dụng một mô hình kinh tế lượng đơn giản để ước lượng những nhân tố chi phối lượng kiều hối chảy về Việt Nam.
- Kết quả hồi quy cho thấy kiều hối có khuynh hướng tăng lên khi điều kiện kinh tế trong nước và môi trường đầu tư được cải thiện (thể hiện qua mức GDP trên đầu người và lượng vốn FDI).
- Nghiên cứu của Pfau và Long (2006) cung cấp nhiều thống kê mô tả hữu ích về vấn đề kiều hối ở Việt Nam thông qua các bộ số liệu VLSS.
- Nghiên cứu này cho thấy sự phân phối của kiều hối trong cả nước.
- Vào đầu thập niên 1990, hai vùng này, mặc dù chỉ chiếm 38% dân số cả nước, nhưng đã tiếp nhận gần ba phần tư tổng lượng kiều hối toàn quốc.
- cơ cấu phân bổ kiều hối những năm sau đó.
- Lượng kiều hối chuyển về hai cực nói trên giảm một cách tương đối, và tăng lên ở tất cả các vùng khác, đáng kể nhất là vùng Bắc Trung Bộ và đồng bằng sông Cửu Long.
- Trong khi dân số ở khu vực nông thôn dần dần giảm đi, thì tỷ trọng kiều hối khu vực này nhận được lại tăng lên đáng kể.
- Phân phối kiều hối theo vùng nông thôn-thành thị.
- Một vấn đề rất quan trọng nhưng đồng thời lại rất chưa rõ ràng, là kiều hối được sử dụng như thế nào.
- Câu trả lời chính xác cho vấn đề này có thể giúp ích cho việc làm sáng tỏ cuộc tranh luận về hiệu ứng thực sự của kiều hối đối với đời sống kinh tế.
- Nghiên cứu của Pfau và Long (2006) cho thấy 73% lượng kiều hối được phân bổ cho tiêu dùng trực tiếp, trong khi 14% được dùng cho “xây (và sửa) nhà,” và chỉ có 6% là được dùng cho “đầu tư”.
- Nhằm mục đích hiểu sâu hơn tác động của kiều hối đến tiêu dùng của hộ gia đình, Nguyễn T.T.
- Kết quả nghiên cứu cho thấy những hộ gia đình nhận kiều hối có khuynh.
- Từ đó, tác giả lập luận rằng trong khi nhóm hộ nghèo dùng kiều hối để đáp ứng nhu cầu cơ bản cho cuộc sống, thì nhóm hộ giàu hơn có thể sử dụng kiều hối dưới dạng đầu tư vào bất động sản.
- Thành (2007) sử dụng kỹ thuật mô hình hoá cân bằng tổng thể (CGE) để phân tích tác động của kiều hối lên nền kinh tế Việt Nam.
- Kết quả từ nghiên cứu này củng cố quan điểm cho rằng ảnh hưởng của kiều hối lên nền kinh tế của các nước đang phát triển là phức tạp và pha trộn nhiều khuynh hướng khác nhau..
- Trong bối cảnh Việt Nam, khi dòng kiều hối tăng nhanh đi kèm với việc hội nhập ngày càng sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, kết quả ước lượng từ nghiên cứu này cho thấy giá của tất cả các nhân tố đều tăng, trong khi khu vực sản xuất công nghiệp chịu ảnh hưởng lớn nhất và có khuynh hướng bị thu hẹp (các điều kiện khác không đổi).
- Điều này hàm ý rằng ảnh hưởng dài hạn của kiều hối lên mặt cung của nền kinh tế có thể theo chiều hướng tiêu cực, và có thể lấn át những ảnh hưởng tích cực mang tính ngắn hạn từ phía cầu nếu kiều hối không được sử dụng cho các mục đích đầu tư..
- Từ thực tiễn của Việt Nam, nhìn chung, tác dụng tích cực và dễ thấy của dòng kiều hối là giúp tăng thu nhập khả dụng của các hộ gia đình, do đó làm tăng chi tiêu trong nước..
- Để khắc phục hiệu ứng tiêu cực và khó nhận biết này, cần thực thi các chính sách nhằm giúp nâng cao hiệu quả sử dụng của kiều hối, như định hướng hoặc tạo động lực để kiều hối được sử dụng cho các mục đích mang tính đầu tư cao hơn (cả đầu tư vào sản xuất lẫn đầu tư vào con người như giáo dục)..
- Bên cạnh đó, lượng kiều hối gia tăng một phần phản ánh thực tế là lượng lao động của Việt Nam ở nước ngoài ngày càng nhiều (kết quả của chính sách xuất khẩu lao động).
- Điều này cũng giúp tạo ra các hiệu ứng phát triển kinh tế tích cực trong dài hạn của kiều hối.