« Home « Kết quả tìm kiếm

VÀI NÉT VỀ HÁN HỌC HOA KỲ


Tóm tắt Xem thử

- Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
- Có lúc nó chỉ ngành Kinh học thời nhà Hán, lại có lúc chỉ việc nghiên cứu khảo chứng học thời Càn Long - Gia Khánh nhà Thanh, song thông thường nó dược dùng đồng nghĩa với Trung Quốc học (Sinology hay Chinese Studies trong tiếng Anh).
- Năm 1832 tại Áo Môn, ông đã sáng lập và chủ biên tờ Trung Quốc tùng báo (Chinese Repssitory, còn có tên là Áo Môn nguyệt báo) giới thiệu với phương Tây về tình hình Trung Quốc, bản thân ông cũng đăng không ít bài ở Áo Môn và từng phiên dịch cho Lâm Tắc Từ với công sứ Hoa Kì Cu-sheng..
- Martin (tên tiếng Hoa là Đinh Vĩ Lương và Young J.Allen (tên tiếng Hoa là Lâm Lạc Tri đặc điểm của họ là ngoài tư cách giáo sĩ và nhà Hán học ra, họ còn hoạt động sôi nổi trên chính trường Trung Quốc suốt một thời gian dài.
- Nghiên cứu Trung Quốc trên cơ sở trải nghiệm sinh hoạt ở Trung Quốc thật ra không chỉ khoanh lại trong các giáo sĩ truyền giáo.
- Morse ông này công tác tại Cục Thuế vụ Trung Quốc lâu đến 33 năm (bao gồm cả Ty Thuế quan Đạm Thủy Đài Loan, bấy giờ Ty Thuế chủ yếu do người nước ngoài quản lí), hiểu biết rất rõ tình hình ngoại giao ngoại thương.
- Ông chia quan hệ giữa Trung Quốc cận đại với phương Tây làm 3 giai đoạn: 1.
- Ông Đỗ Duy Minh(3) (Tu Wei Ming) gọi đó là “một loại nghiên cứu Trung Quốc phản Hán học”.
- Hướng nghiên cứu mới này khởi đầu từ “Nghiên cứu địch tình” trong Thế chiến thứ 2, tức là nước Mĩ nghiên cứu Nhật Bản trong thời kì Đại chiến thứ 2, nghiên cứu Liên Xô trong thời kì Chiến tranh lạnh, nghiên cứu Trung Quốc thời chiến tranh Triều Tiên.
- Lấy trường đại học Ha-vớt làm thí dụ, trong quá trình chuyển hướng Hán học sang nghiên cứu Trung Quốc đương đại, John King Fairbank (tên tiếng Hoa là Phí Chính Thanh giữ một vai trò hết sức quan trọng, ông cũng được tôn là “khai sơn thủy tổ” của Trung Quốc học (Chinese Studies) Hoa Kì.
- Fairbank lấy Đại học Harvard làm cơ sở hệ thống hóa và chuyên ngành Trung Quốc học của mình, tại đó đã đào tạo được một loạt “chuyên gia về vấn đề Trung Quốc” hoặc gọi là “Trung Quốc thông” trong các trường đại học trọng điểm của Hoa Kì hiện nay, một loạt các giáo sư lịch sử Trung Quốc vốn là học trò của ông.
- Hán học Âu châu truyền thống thì lấy ngôn ngữ và văn hóa Trung Quốc làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu.
- Thứ hai là sử dụng hồ sơ Trung Quốc và tư liệu nguyên thủy của Trung Quốc để nghiên cứu lịch sử Trung Quốc.
- Morse (tên tiếng Hoa là Mã Sĩ) của Anh Quốc, Henri Cordier (Khảo Địch của Pháp, Tyler Dennett (tên tiếng Hoa là Đan Niết Đặc của Hoa Kì hầu như đều chỉ căn cứ vào hồ sơ tư liệu của Anh, Pháp, Mĩ để nghiên cứu quan hệ đối ngoại của Trung Quôc, cho rằng chỉ cần hồ sơ phương Tây và quan điểm của phương Tây là đủ rồi, tư liệu của Trung Quốc là không đáng tin cậy, quan điểm của Trung Quốc là không cần thiết.
- Tác phẩm của họ nói một cách nghiêm khắc, chỉ là lịch sử quan hệ của Anh, Pháp, Mĩ đối với Trung Quốc, chứ không phải lịch sử ngoại giao của Trung Quốc.
- Fairbank khác hẳn với họ, ông đã mở đầu một phong khí mới sử dụng hồ sơ Trung Quốc để nghiên cứu lịch sử cận đại Trung Quốc..
- Thứ ba, việc nghiên cứu Trung Quốc của Fairbank lấy lí luận hiện đại làm tư tưởng chỉ đạo chủ yếu.
- Cách tiếp cận này dựa vào mô thức lí giải là “thách thức và đáp ứng” của Arnol Joseph Toynbee(5) (tên tiếng Hoa là Thang Ân Tỉ tức là nghiên cứu xem Trung Quốc trả lời phương Tây như thế nào, như vậy là một mặt mong muốn Hoa Kì tìm hiểu Trung Quốc, mặt khác cũng mong muốn Trung Quốc tìm hiểu Hoa Kì, “trọng điểm dĩ nhiên đặt vào lợi ích của Hoa Kì”(6)..
- Họ dần dần nhấn mạnh tính tự biến của xã hội truyền thống Trung Quốc, cho rằng trước khi phương Tây xâm nhập Trung Quốc, xã hội Trung Quốc đã xuất hiện những nhân tố biến đổi về kết cấu.
- Cohen, mô thức này chí ít có hai thiếu sót chủ yếu: một là đã quên rằng Trung Quốc và phương Tây đồng thời đều là hai biến thể, chứ không phải là hai khái niệm nhất thành bất biến.
- hai là nó đã ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của việc nghiên cứu Trung Quốc, và như vậy, dựa theo mô thức này chỉ chú ý xã hội Trung Quốc chịu ảnh hưởng của phương Tây, mà coi nhẹ những đặc trưng xã hội Trung Quốc thâm căn cố đế.
- Theo Đỗ Duy Minh, những gì Fairbank viết ra có hai bộ phận: một là khiến cho Trung Quốc học trở thành một khoa học có tính tương quan với hiện thực, và công việc này được tiến hành với kinh phí của ngân sách quốc phòng.
- hai là nhấn mạnh rằng nghiên cứu Trung Quốc đương đại thì nhất thiết phải nghiên cứu lịch sử hiện đại của Trung Quốc, mà nghiên cứu lịch sử hiện đại Trung Quốc thì nhất định phải nghiên cứu Thanh sử(11).
- Barrett cho rằng các học giả Hoa Kì như các ông ấy đều đã bắt đầu coi thường mô thức Trung Quốc học của châu Âu, đến thập kỉ 1960 là thời kì phát đạt thịnh vượng của khoa học nghiên cứu khu vực của Hoa Kì thì họ đã khái quát tổng kết lại cảm giác và quan niệm coi thường đó(15).
- Do đã kết hợp tri thức chuyên ngành đối với khu vực với phương pháp nghiên cứu (lúc bấy giờ xem ra dường như đã) bắt rễ sâu và khoa học xã hội, lại thêm sự thách thức do nghiên cứu liên ngành mang lại trở thành động lực nghiên cứu, các học giả hi vọng ngành Trung Quốc học có thể góp phần vào nhiều chủ đề liên ngành và liên lĩnh vực.
- Lối nghiên cứu ngôn ngữ, văn hóa, triết học, văn học Trung Quốc kiểu truyền thống nhìn chung bị xem là lỗi thời và kém hấp dẫn" (16)..
- Để hiểu rõ hơn về Trung Quốc đương đại, từ 1945 đến nay, Hoa Kì đã bắt đầu xây dựng kho tư liệu Trung Quốc đương đại của mình.
- Điều này có quan hệ chặt chẽ với vai tròn chính trị và tình hình quân sự của Hoa Kì ở châu Á lúc đó, từ đó việc nghiên cứu Trung Quốc học ở Hoa Kì bắt đầu có thành tựu..
- Rất đáng khâm phục là kho sách mới bằng tiếng Anh và tiếng Hán mà thư viện của Trung tâm này thường xuyên được bổ sung số lượng và chất lượng đều rất đáng nể, mà đại bộ phận đều thuộc phạm vi “Trung Quốc đương đại”..
- Trung tâm Trung Quốc học Mit-si-gân (Center for Chinese Studies) sáng lập năm 1961, có vị trí dẫn đầu trong các cơ cấu tương tự ở Hoa Kì.
- Trung tâm này nằm trong Viện Quốc tế (Intenational Institute), với chức năng cung cấp cho sinh viên và các chuyên gia những tư liệu quý giá và những hiểu biết chuyên sâu về các vấn đề Trung Quốc.
- tổng cộng có 33 chuyên gia, trong đó có nhà ngữ âm học lịch sử ngôn ngữ Trung Quốc lừng danh William Baxter..
- Ngoài ra, còn có Trung tâm pháp luật Trung Quốc (The Center for Chinese Legal Studies CCLS), Trung tâm này đặt ở Trường Luật Columbia (Columbia Law School), sáng lập năm 1983, từ thập kỷ 80 đến nay dẫn đầu trong nghiên cứu pháp luật Trung Quốc tại Mĩ, và cung cấp những khóa trình rộng rãi nhất ở Mĩ về phương diện pháp luật Trung Quốc, chủ yếu đề cập đến các vấn đề mậu dịch quốc tế, truyền thông và môi trường.
- Bên cạnh các chủ đề đó, người học còn có thể tiến hành những đề tài nghiên cứu sáng tạo về pháp luật Trung Quốc với sự hợp tác của các giáo sư..
- Hội Sinh viên và Học giả Trung Quốc Comlumbia (Columbia University Chinese Students and Scholars Association) với trên 1000 hội viên có mục đích giúp đỡ lẫn nhau giữ vững và thúc đẩy văn hóa Trung Quốc..
- Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc Berkeley Trường đại học bang California (Center for Chinese Studies, University of California, Berkeley) là đơn vị nghiên cứu lớn nhất và có sức sống nhất của Viện nghiên cứu Đông Á (Institute of East Asian Studies) do Quỹ Ford và chính quyền bang California sáng lập năm 1957, mục đích là để điều phối và thúc đẩy việc nghiên cứu Trung Quốc đương đại.
- Trọng điểm nghiên cứu của Trung tâm này thoạt đầu đặt vào nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và các đề tài liên quan, song hoạt động học thuật của Trung tâm hiện nay không giới hạn ở Trung Quốc đại lục, mà còn bao gồm cả việc nghiên cứu xã hội Đài Loan, Hồng Kông và Đông Nam Á.
- Ngoài ra, Trung tâm này cũng dạy cả thực hành ngôn ngữ và biên soạn các từ điển Trung Quốc học đương đại, cũng như xuất bản các tùng thư và chuyên khảo.
- Ngoài việc chú ý đến “mọi lĩnh vực Trung Quốc học” (All Areas of China Studies)(17) ra, Trung tâm này cũng có một kế hoạch hoạt động ngoại khóa phong phú.
- Nhìn trên tổng thể, ngành Trung Quốc học ở Đại học Berkeley California lấy khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Đông Á và Viện nghiên cứu Đông Á làm nòng cốt, cộng thêm Thư viện Đông Á (East Asian Library, giờ đây Trường Berkeley đang dự định lập Trung tâm nghiên cứu Đông Á Điền Trường Lâm(18) (Chang Lin Tien Center for East Studies) trong tương lai, Trung tâm này sẽ bao hết toàn bộ công việc nghiên cứu Đông Á (kể cả nghiên cứu Trung Quốc học) trong toàn khuôn viên nhà trường..
- Trường đại học Cornell có lịch sử nghiên cứu Trung Quốc lâu dài: Trong khoảng thời gian từ 1900 đến 1999, ở toàn nước Mĩ có ba vạn lưu học sinh Trung Quốc, thì có 3.500 người (12%) đã theo học tại trường này, trong số đó có Hồ Thích và Triệu Nguyên Nhiệm .
- Năm 1972, số thầy giáo Đông Á có 17 người, chương trình Trung Quốc đổi thành Chương trình Trung Quốc - Nhật Bản (China - Japan Program).
- Có 3 trung tâm nghiên cứu khu vực châu Á (Asian Area Centers): Chương trình Đông Á, Chương trình Nam Á và Chương trình Đông Nam Á, nghiên cứu Trung Quốc nằm trong chương trình Đông Á.
- Trong chương trình Đông Á có xê-ri Lịch sử thương nghiệp Trung Quốc (Chinese Business History) thuộc các xê-ri tùng thư Cornell (Cornell East Asian Series)..
- Các tổ chức nghiên cứu Hán học/ Trung Quốc học ngoài các trường Đại học.
- Dưới đây là một số tổ chức nghiên cứu Trung Quốc nằm ngoài các trường Đại học ở Hoa Kì..
- 2.3 Hội nghiên cứu châu Á (Association for Asian Studies) sáng lập năm 1941, năm 1970 thiết lập bốn ủy ban khu vực tuyển nhiệm là: (1) Ủy ban Nam Á (South Asia Council).
- Hội Trung Quốc học Hoa Kì (American Association for Chinese Studies) sáng lập năm 1959, là học hội duy nhất ở Mĩ chỉ chuyên nghiên cứu Trung Quốc, nhằm mục đích khuyến khích việc nghiên cứu Trung Quốc, đặc biệt là trong các tổ chức giáo dục của Mĩ, thông qua trao đổi thông tin học thuật để thúc đẩy nghiên cứu và giảng dạy.
- Có các xuất bản phẩm Tạp chí Trung Quốc học Hoa Kì (American Journal of Chinese Studies), và Thông tin Hội Trung Quốc học Hoa Kì (AACS News letter)..
- 3.1 Hiện tượng “Trung Quốc đương đại” (19) (Contemporary China) và việc nghiên cứu khu vực (Area Studies)..
- Fairbank được coi là tổ sư của Trung Quốc học Hoa Kì (Chinese Studies or China Studies), kể cả xu hướng phát triển nghiên cứu Hán học chuyển dần thành Trung Quốc học, trong đó việc “nghiên cứu Trung Quốc đương đại” do Hoa Kì thúc đẩy có vai trò quyết định..
- Tháng 1-1959: Niên báo của Viện Hàn lâm khoa học chính trị và xã hội (Annals of the Academy of Political and Social Science) xuất bản số đặc biệt “Trung Quốc và người Trung Quốc đương đại” (Con emporary China and the Chinese) với nội dung chủ yếu về Trung Quốc, trong Lời nói đầu, giáo sư trường đại học Columbia New York là Howard L.
- Boorman đã nêu rõ ở nội dung có tính chất cương lĩnh rằng: “Trong tình hình đó (tình hình Trung Quốc cộng sản trở thành nhân tố chủ yếu của nền chính trị châu Á đương đại, và Trung Quốc học truyền thống của phương Tây lấy khoa học lịch sử và nhân văn làm chính), trước mắt nền đại học Mĩ có một cơ hội có một không hai, phát triển phương pháp nghiên cứu kinh nghiệm và phân tích đối với các vấn đề Trung Quốc đương đại, và mở rộng việc sử dụng lĩnh vực khoa học xã hội”..
- Tiếng nói thúc đẩy hướng nghiên cứu này không phải chỉ ở Mĩ mới có, mà có cả phát triển mới của các Tổ chức Hán học quốc tế phương Tây ví như Trung tâm Hồ sơ Trung Quốc đương đại (Documentation Centre on Contern porary China) của Pháp sáng lập ngày 1-1-1959, người phụ trách trung tâm này là Jacques Guillermaz hay ở giới Hán học Anh quốc cũng có sự phát triển tương tự.
- Và bộ phận lịch sử của Trung Quốc học cũng có sự phân chia “Trung Quốc truyền thống” (Traditional China), “Trung Quốc cận đại” (Modern China) với “Trung Quốc đương đại” (Contemporary China): Trung Quốc đương đại có nghĩa là từ 1949 đến nay.
- Trung Quốc cận đại chủ yếu chỉ từ năm 1850 đến thập niên 1950 (tức là Trung Quốc xung đột với phương Tây, từ chiến tranh thuốc phiện đến khi Đảng Cộng sản lên), còn Trung Quốc truyền thống thì chỉ Trung Quốc trước thập kỉ 1850.
- Ngoài ra, chúng ta có thể thấy “Trung Quốc đương đại” cũng chỉ là cách nói khác về chế độ chính trị mà Đảng Cộng sản Trung Quốc lập nên ở Trung Quốc từ năm 1949 đến nay.
- “Trung Quốc đương đại”, cách gọi này cùng với nội dung của nó, trong khoảng những năm 1958-1960 đã trở thành một đề tài phổ biến, một vấn đề về nhận thức luận chuyên ngành.
- Lí do rõ ràng là gắn Trung Quốc học với “lợi ích quốc gia” (National Interest) của Mĩ.
- Các tổ chức Hán học bị coi là đã dẫn tới việc “để mất Trung Quốc” (the loss of China)(21), giới Hán học và chuyên ngành của họ cũng vì thế mang tai mang tiếng, trong đó các học giả hoặc quan chức ngoại giao nổi tiếng đều bị Uỷ ban của Quốc hội Mĩ thẩm vấn nghiêm mật.
- Sau đó, các nhà Trung Quốc học đã vất vả dốc sức xây dựng lại tổ chức của mình, như đã nói ở trên, Hội nghiên cứu châu Á (AAS) năm 1956 đã kế thừa Hội Viễn đông xây dựng từ năm 1948, và có thái độ rất cẩn thận đối với hoạt động chính trị, điều lệ của Hội này ghi rõ “là hội khoa học chứ không phải hội chính trị.
- Boorman trong văn kiện có tính chất cương lĩnh “Contemporary China” năm 1959 đã phản đối lập trường của chính phủ Mĩ lúc bấy giờ, cho rằng chính phủ cộng sản Trung Quốc không quan hệ gì với văn hóa và xã hội Trung Quốc, chỉ dựa vào sự giúp đỡ của Liên Xô mà tồn tại..
- Các chuyên gia Trung Quốc học nhìn thấy ở đây cơ hội mới để kết thúc ảnh hưởng mặt trái của chủ nghĩa Mac Carthy.
- Giai đoạn sau của Trung Quốc học Hoa Kì là biến Contemporary China thành tổ chức.
- Khi làm chủ tịch ủy ban tư vấn về nghiên cứu và phát triển của Hội nghiên cứu châu Á (AAS Consultative Commission on Research and Development), Fairbank đã triệu tập một cuộc hội thảo lấy tên là “Nghiên cứu Trung Quốc đương đại” (từ ngày 18 đến ngày 21 tháng 6 năm 1959).
- Hội thảo này đã lập ra Ủy ban liên hợp về Trung Quốc đương đại (Joint Committee on Contemporary China)..
- Trong quá trình xây dựng tổ chức nghiên cứu Trung Quốc đương đại, Fairbank (phái tự do) và G.
- Taylor (phái bảo thủ) có cống hiến lớn nhất, Fairbank sở trường về phương diện học thuật và tri thức chuyên ngành, cũng như tinh thần và thái độ say sưa nghiên cứu đã phát triển được ngành Trung Quốc học của trường đại học Harvard.
- Từ 1957 về sau, việc nghiên cứu Trung Quốc đương đại dần dần được hoan nghênh, một mặt khơi lại hứng thú của nước Mĩ đối với thế giới phi phương Tây, mặt khác cũng thích ứng với cục diện xung đột Trung Xô lúc bấy giờ.
- Thí dụ như để thúc đẩy Trung Quốc học Hoa Kì, từ năm 1959 đến năm 1970 quỹ Ford đã chi 23,8 triệu USD(18).
- Số tiền này phân cho các tổ chức nghiên cứu ở các trường đại học chủ yếu(29), mục đích chính là để mở các khóa học chuyên đề và đa lĩnh vực về Trung Quốc học..
- Trong quá trình nghiên cứu Trung Quốc đương đại đó, giới học thuật Mĩ đã có một lý thuyết tương đối có ảnh hưởng, đó là “lí thuyết phát triển” (Development Theories) mà nhà chính trị học rất am hiểu châu Á Lucian Pye(30) là đại diện lúc bấy giờ.
- Về Trung Quốc học, ông là người bảo vệ “phái khoa học xã hội”, hay nói cho sát hơn, ông bảo vệ phái “Khoa học chính trị”.
- Không lạ gì giai đoạn phát triển sau của “Trung Quốc đương đại” là hoàn toàn lệ thuộc vào lĩnh vực khoa học xã hội..
- Tuy nhiên, ở Mĩ từ thập kỉ 1980 đến nay, các tổ chức nghiên cứu chính thức, trong tên gọi của mình không còn dùng cụm từ “Trung Quốc đương đại” nữa, mà cũng không nói rõ vì sao loại bỏ nó.
- Năm 1982, chính Uỷ ban liên hợp về Trung Quốc đương đại đã ghép với Uỷ ban nghiên cứu văn minh Trung Quốc (Committee on the Studies of Chinese Civilization) thành Uỷ ban liên hợp Trung Quốc học (Joint Committee on Chinese Studies) Hội đồng các tổ chức học thuật Hoa Kì (ACLS) không còn đặc biệt khống chế việc nghiên cứu “Trung Quốc đương đại” nữa.
- Sự phát triển của Trung Quốc học Hoa Kì đụng đến vấn đề quan hệ giữa nghiên cứu khu vực với lĩnh vực khoa học chuyên ngành trong học thuật phương Tây hiện nay.
- Hán học hay Trung Quốc học là nghiên cứu khu vực, còn lĩnh vực khoa học chuyên ngành là chỉ lịch sử học, xã hội học, kinh tế học, chính trị học, nhân loại học v.v, vấn đề mấu chốt là làm thế nào để hai cái đó phối hợp với nhau.
- Ở Trung Quốc học Hoa Kì, nghiên cứu chính trị học và lịch sử học tương đối thành công.
- Nghiên cứu Nho gia truyền thống xưa nay vẫn là bộ phận quan trọng của Hán học phương Tây, khuynh hướng của Trung Quốc học Hoa Kì cũng tương tự như thế.
- Ở thời kì gọi là “Trung Quốc đương đại”, rất nhiều học giả Mĩ nghiên cứu mối quan hệ giữa truyền thống và trạng thái hiện đại của Nho gia với hiện đại hóa.
- Neville đã chia các học giả nghiên cứu triết học Trung Quốc (đặc biệt là truyền thống Nho gia) trong thế giới Anh ngữ ra làm 3 loại: loại thứ nhất là những học giả kiểu giải thích, tức là dốc sức vào việc phiên dịch và giải thích văn bản kinh điển (điển hình là Trần Vinh Tiệp và William Theodore de Bary).
- Loại học giả này đứng giữa loại thứ nhất với loại thứ ba nói trên, đặc điểm chủ yếu của họ là tiến hành nghiên cứu so sánh tư tưởng hoặc quan niệm triết học của Trung Quốc với phương Tây, đặc biệt hứng thú với một số tư tưởng trong triết học Trung Quốc, cho rằng những tư tưởng ấy rất có ích cho việc nghiên cứu triết học phương Tây hoặc triết học đương đại..
- Mô thức nghiên cứu Trung Quốc của Mĩ là “nghiên cứu khu vực”.
- Không có khoa Hán học hay Trung Quốc học, mà phần lớn là khoa các ngôn ngữ và văn hóa Đông Á, trong đó có một số Trung tâm Trung Quốc học.
- Ngoài ra mỗi bộ phận nghiên cứu Trung Quốc thường có quan hệ đồng nghiệp bè bạn ở các khoa hệ khác như khảo cổ học, xã hội học..
- Trọng điểm nghiên cứu Hán học của Hoa Kì là ở phạm vi Trung Quốc đương đại, còn về Trung Quốc cổ đại, thời Trung cổ, thời Tống Minh Thanh thì có cách bổ cứu là hợp tác với các khoa khác (lịch sử, khảo cổ, v.v.
- Ở Hoa Kì, đặc biệt là sau Đại chiến II đến nay, Trung Quốc học có quan hệ mật thiết và nhạy cảm với chính trị.
- Trung Quốc học của Hoa Kì rất quan trọng ở phương Tây, nó ảnh hưởng đến không khí Hán học quốc tế.
- Giới Hán học Hoa Kì còn có một đặc điểm khác các nước phương Tây khác là có sự đóng góp quan trọng của chính người Trung Quốc.
- Từ vị Giáo sư Trung Quốc đầu tiên ở trường Đại học Harvard là Qua Côn Hóa qua Trần Vinh Tiệp đến Thành Trung Anh hay Wu Kuangming ngày nay, chính nhờ có công việc giảng dạy đa ngành của các Hoa kiều đó và sự giúp đỡ thu thập tư liệu quản lí thư viện của họ khiến cho Hán học Hoa Kì phong phú hơn các nước phương Tây khác..
- Có người như Jonathan Goldstein từng viết “Nhà Trung Quốc học đầu tiên của Mĩ: Robert Wahn, Jr.
- Ông còn kiêm chức Chủ nhiệm Trung tâm nghiên cứu mang tên Fairbank, hội viên Hội sử học Mĩ, Hội nghiên cứu châu Á và biên tập viên Trung Quốc quý san và Tạp chí Hội nghiên cứu Á châu Harvard.
- Tác phẩm chính: Chủ nghĩa cộng sản của Trung Quốc và sự nổi lên của Mao Trạch Đông” (1952), “Trung Quốc cộng sản chủ nghĩa văn hiến sử” (1954), “Truyền thuyết về chủ nghĩa Mao Trạch Đông” (1960), “Chủ nghĩa cộng sản với Trung quốc: tư tưởng và biến đổi”(1968).
- “Thế giới tư tưởng của Trung Quốc cổ đại” (1985), “Nghiên cứu Trung Quốc” (1990) v.v....
- Kuhn là giáo sư ngôn ngữ và văn hóa của Đại học Harvard, là học giả nổi tiếng nghiên cứu Trung Quốc cận đại sử và Thanh sử, từng là Chủ nhiệm Trung tâm nghiên cứu Đông Á Fairbank của Đại học Harvard..
- Xin xem Bernhanrd Fuchrer (Phó Hùng), Suy ngẫm về hiện trạng nghiên cứu Hán học châu Âu, đăng trong “Hội thảo quốc tế Hán học lần thứ nhất của Đại học Phụ nhân - Đối thoại về tính học thuật Trung Quốc: trường hợp (Hoa duệ học chí) làm thí dụ” (Nxb Đại học Phụ nhân, Taipei, 2004), tr.135..
- Người viết nhấn mạnh: ở đây dùng danh từ China mà không dùng hình dung từ Chinese, là một cách dùng hết sức đặc biệt của tiếng Anh có thể dịch là Trung Quốc học..
- Nội dung này dựa theo luận văn của Yves Viltard “Sự ra đời của “Trung Quốc đương đại” ở Hoa Kì: nguồn gốc của một sự xác định phương hướng Trung Quốc học Hoa Kì” (The Birth of ‘Contemporary China’ in the United States: The Archaeology of an American Sinological Determination) đăng trên China Perspectives (Góc nhìn Trung Quốc) số 25 (1999) tr.60-81..
- Năm 1953, Jacques Guillermaz đã sáng lập tổ chức nghiên cứu Trung Quốc đương đại, sau đó mới có Trung tâm tư liệu tương quan.