« Home « Kết quả tìm kiếm

Về các biện pháp xử lý hành chính khác: Thực trạng và định hướng hoàn thiện


Tóm tắt Xem thử

- Về các biện pháp xử lý hành chính khác:.
- Hệ thống các quy định pháp luật về các biện pháp xử lý hành chính khác (CBPXLHCK) có vai trò quan trọng trong việc đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức, bảo vệ và bảo đảm các quyền, lợi ích chính đáng của công dân.
- Theo Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính (VPHC) 2002 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2007, các biện pháp xử lý hành chính khác bao gồm:.
- Giáo dục tại xã, phường, thị trấn;.
- Trong điều kiện mới, hệ thống các quy định pháp luật và áp dụng pháp luật về CBPXLHCK còn rất nhiều bất cập, yếu kém.
- Hiện nay, Việt Nam đang tiến hành pháp điển hoá về xử lý vi phạm hành chính, trong đó có vấn đề các biện pháp xử lý vi phạm hành chính khác.
- Xét về tính chất và về lâu dài, nên đưa các biện pháp này vào trình tự tư pháp để đảm bảo các quyền, tự do của cá nhân một cách tốt nhất.
- Hiện tại, do còn nhiều khó khăn trên thực tế nên có thể vẫn tiếp tục giữ lại các biện pháp này nhưng phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn xã hội..
- Hệ thống các quy định pháp luật về CBPXLHCK có vai trò quan trọng trong việc đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức, bảo vệ và bảo đảm các quyền, lợi ích chính đáng của công dân..
- Trong điều kiện mới, hệ thống các quy định pháp luật và áp dụng pháp luật về CBPXLHCK còn rất nhiều bất cập, yếu kém..
- bối cảnh pháp điển hóa về xử lý vi phạm hành chính ở nước ta hiện nay..
- CBPXLHCK là những biện pháp cưỡng chế hành chính đặc biệt, chỉ áp dụng đối với chủ thể vi phạm là cá nhân, căn cứ vào nhân thân và quá trình vi phạm pháp luật của đối tượng.
- Hình thức này khác với cưỡng chế tư pháp ở chỗ nó được áp dụng không qua cơ quan xét xử mà được áp dụng bởi cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền bằng quyết định hành chính, có tính cưỡng chế nghiêm khắc hơn, ít nhiều có liên quan đến sự hạn.
- Theo Pháp lệnh Xử lý VPHC 1995 các biện pháp cưỡng chế hành chính đặc biệt được xếp vào nhóm biện pháp xử lý VPHC khác.
- Theo Pháp lệnh Xử lý VPHC 2002 có các biện pháp xử lý hành chính khác sau đây:.
- Khác với xử phạt VPHC được áp dụng đối với tất cả các cá nhân, tổ chức cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật thì bị xử phạt VPHC.
- còn biện pháp xử lý hành chính khác chỉ được áp dụng đối với cá nhân là người Việt Nam, có hành vi vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự..
- Ngoài Pháp lệnh Xử lý VPHC năm 1995, được sửa đổi, bổ sung tại Pháp lệnh Xử lý VPHC năm 2002, các quy định về CBPXLHCK còn được quy định tại rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác..
- Về ưu điểm, nhìn chung, hệ thống các văn bản bao quát hầu hết các lĩnh vực liên quan đến việc áp dụng CBPXLHCK.
- Các văn bản quy định tương đối chi tiết về trình tự thủ tục từ việc quyết định áp dụng đến tổ chức thực hiện CBPXLHCK.
- Nhận xét một số hạn chế, bất cập chủ yếu của pháp luật quy định về CBPXLHCK.
- Thử hình dung, vấn đề tội phạm và hình phạt cho mỗi tội danh phải được quy định trong một bộ luật do cơ quan quyền lực nhà nước ban hành.
- Có thể coi việc giao cho quá nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành các quy định có liên quan đến CBPXLHCK là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự chồng chéo, phức tạp và khó khăn cho việc hiểu, vận dụng các quy định này trong thực tiễn..
- Một trong những hạn chế, bất cập chủ yếu trong các quy định hiện hành về CBPXLHCK là sự chưa phù hợp giữa một số quy định của văn bản hướng dẫn Pháp lệnh với các quy định của bản thân Pháp lệnh..
- Đây là một trong những nguyên nhân của sự chậm trễ trong việc ban hành các văn bản pháp luật về BPXLHCK.
- Các nghị định của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh đều được ban hành sau gần một năm hoặc hơn một năm kể từ ngày Pháp lệnh có hiệu lực thi hành.
- Cùng với việc chậm trễ ban hành các nghị định của Chính phủ là việc chậm trễ ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành của các Bộ, ngành chức năng do phải chờ văn bản cấp trên, v.v… Mặc dù các Nghị định quy định về chế độ áp dụng các biện pháp hành.
- chính khác đã được ban hành nhưng nhiều địa phương vẫn trông chờ văn bản hướng dẫn của các Bộ nên chậm trễ áp dụng quy định của các văn bản mới.
- thậm chí có địa phương vẫn áp dụng quy định Hội đồng tư vấn cấp tỉnh với lý do “làm như vậy cho bảo đảm hơn, chính xác hơn”.
- Đồng thời với sự mâu thuẫn, chồng chéo là sự thiếu hụt, tạo lên nhiều khoảng trống trong hệ thống các quy định về CBPXLHCK, ví dụ về biện pháp cưỡng chế trong áp dụng CBPXLHCK, quy định về quản lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính....
- Về đối tượng áp dụng biện pháp hành chính khác.
- Do vây, trên thực tế đã dẫn đến tình trạng một số Bộ đã ban hành văn bản pháp luật mở rộng phạm vi đối tượng bị áp dụng CBPXLHCK so với Pháp lệnh.
- Về kỹ thuật soạn thảo, ban hành các quy định pháp luật về CBPXLHCK.
- Về ngôn ngữ thể hiện, nhiều quy định trong Pháp lệnh rườm rà và có nhiều vấn đề nhầm lẫn hoặc không rõ ràng dẫn đến việc hiểu nhầm, hiểu không đúng và áp dụng không thống nhất trong thực tiễn.
- các khái niệm “vặt”, “nhỏ” là các khái niệm phi định lượng, không có tính pháp lý, dẫn đến khó khăn, tuỳ tiện trong thi hành biện pháp này trong một số trường hợp cụ thể.
- Do sự chưa rõ ràng minh bạch trong các quy định về các biện pháp hành chính khác.
- nên các cán bộ có thẩm quyền ở địa phương còn có cách hiểu khác nhau dẫn đến việc áp dụng khác nhau, dẫn đến tình trạng thực hiện không thống nhất.
- Về đảm bảo nguyên tắc tính tối cao của luật và quản lý xã hội bằng pháp luật.
- Các nguyên tắc trên chưa được thể hiện rõ trong các quy định pháp luật và trong thực tiễn áp dụng.
- Xét về bản chất, CBPXLHCK thực chất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân, quyền con người mà đáng lẽ phải được quy định ở văn bản luật.
- Lâu nay chúng ta chưa có một văn bản nào ở cấp độ luật quy định về xử lý vi phạm hành chính nói chung và CBPXLHCK này nói riêng.
- Trong khi đó, không chỉ có pháp lệnh quy định mà trên thực tế lại còn rất nhiều cơ quan hành chính cũng có thẩm quyền quy định về CBPXLHC..
- Lý do thì có nhiều, song một trong số đó là xuất phát từ nhận thức cho rằng đây là các biện pháp ít nghiêm khắc, biện pháp xử lý nhẹ, là bước đệm để áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính, cho nên chưa coi trọng việc xây dựng văn bản luật về CBPXLHCK.
- Nhận thức này cũng được biểu hiện rõ nét trong khâu áp dụng các quy định về CBPXLHCK..
- Về cơ bản trong hệ thống các văn bản quy định liên quan CBPXLHCK chưa quy định cơ quan nào là cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm chính trong áp dụng các biện pháp này, mà chủ yếu quy định về sự phối hợp nhiều nhưng còn khá nhiều bất hợp lý đối với các cơ quan quản lý ở địa phương nên không khả thi.
- Các quy định pháp luật hiện hành còn thể hiện sự lẫn lộn giữa trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội.
- Cùng với việc chưa quy định cơ quan chịu trách nhiệm đầu mối, việc không quy định rõ ràng về cơ chế thưởng, phạt cho thành tích và những sai lầm, vi phạm của các cơ quan, đoàn thể cũng là một nhược điểm dẫn đến việc tổ chức thực hiện nhiều khi trở nên hình thức..
- Đơn cử như về thực tiễn áp dụng pháp luật về biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
- Đây là biện pháp giáo dục mang tính chất cộng đồng với sự tham gia của nhiều cá nhân, tổ chức chính trị - xã hội, nhằm giáo dục các đối tượng vi phạm pháp luật hành chính tại địa phương, góp phần tích cực trong việc giúp đỡ người vi phạm tiến bộ..
- Nhưng thực tế cho thấy, việc áp dụng biện pháp này chưa đạt hiệu quả cao, còn mang tính hình thức, dẫn đến buông lỏng người được giáo dục.
- Cũng phải kể đến yếu tố tâm lý, nhiều địa phương cấp xã cho rằng thủ tục thi hành biện pháp này còn quá rườm rà, phức tạp, đòi hỏi vai trò của các đoàn thể chưa được phát huy do tâm lý xã hội còn nặng nề, ngại va chạm, dây dưa với người có những hành vi lệch chuẩn xã hội và luật pháp nêu trên [2].
- Về trình tự, thủ tục quyết định và áp dụng CBPXLHCK.
- Quy định hiện hành nhìn chung là rất phức tạp, rườm rà, chưa đảm bảo tính kịp thời, linh hoạt, tiết kiệm và hiệu quả.
- Thực trạng này có căn nguyên chung hơn tới một quan niệm phổ biến và quy định pháp luật: bất kỳ việc gì cũng phải có nhiều loại chủ thể - cá nhân, tổ chức cùng tham gia vào hầu hết ở mọi công đoạn theo nguyên tắc của Cơ chế phối hợp.
- Tại các cơ sở giáo dục, chương trình, kế hoạch cho việc thực hiện các biện pháp cũng chưa thực sự rõ ràng, hiệu quả.
- Thời gian áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn ngắn, cộng với tâm lý phân biệt của chính quyền cũng như cộng đồng, nên khi hết thời hạn chấp hành biện pháp việc hoà nhập của đối tượng đã bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác là rất khó khăn và dẫn đến ngựa quen đường cũ.
- Tình hình tương tự cũng xẩy ra trong việc áp dụng các biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, theo đó tính hiệu quả của biện pháp này phụ thuộc rất nhiều vào quy định về sự phối hợp với các cơ quan y tế xác định bệnh án.
- Ngoài ra còn có hiện tượng lạm dụng việc áp dụng biện pháp này dẫn đến nhiều trường hợp áp dụng chưa đúng đối tượng (chưa xác định rõ là người nghiện ma túy hay do quậy phá, đã có tiền án, tiền sự hay chưa.
- tức là việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế kể cả khi không cần thiết.
- Định hướng chung cho việc sửa đổi, hoàn thiện các quy định pháp luật về CBPXLHCK.
- Phải được áp dụng theo trình tự tư pháp, tức là chuyển giao cho cơ quan toà án áp dụng CBPXLHCK.
- Việc sửa đổi, hoàn thiện các quy định về CBPXLHCK cần thực hiện theo một số tiêu chí chủ yếu sau:.
- Đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính tối cao của Luật trong hệ thống các văn bản pháp luật.
- Khắc phục một cách căn bản tình trạng quy định thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật về xử lý vi phạm hành chính cho nhiều loại cơ quan nhà nước như hiện nay [3]..
- Thể hiện các quyền và lợi ích chính đáng của các cá nhân có liên quan trong quá trình áp dụng CBPXLHCK..
- Sửa đổi, bổ sung theo hướng những người bị xử lý oan sai phải được bồi thường, mọi trường hợp áp dụng pháp luật sai trái phải bị xử lý nghiêm minh [4]..
- Tính khả thi của các văn bản quy phạm pháp luật quy định về các biện pháp xử lý hành chính khác;.
- Sự đơn giản, minh bạch, rõ ràng của các quy định;.
- Trực tiếp, nhanh chóng, tiết kiệm và hiệu qủa của các quy định;.
- Thực ra việc quy định cả nội dung về Xử phạt VPHC và CBPXLHCK trong cùng một Bộ luật là không khoa học và khó khăn trong thực tiễn áp dụng bởi vì các loại biện pháp cưỡng chế này là rất khác nhau và như vậy, thực ra là mang tính khiên cưỡng khi phải ghép chúng vào trong một văn bản luật.
- Cần phân biệt rõ giữa các văn bản pháp luật quy định chi tiết và các văn bản hướng dẫn thi hành CBPXLHCK.
- Về tính chất, nội dung của chế định các biện pháp xử lý hành chính khác: cần phải xác định lại cả về phương diện thủ tục và phương diện nội dung thì mới phát huy hiệu quả trên thực tế được.
- Về quy định trách nhiệm của các chủ thể có thẩm quyền áp dụng CBPXLHCK chưa rõ ràng, chủ yếu lạm dụng khái niệm “phối hợp giữa các cơ quan”.
- Như thực trạng hiện nay không quy định dứt khoát một đầu mối chịu trách nhiệm, nên không hiệu quả trong việc phát hiện, áp dụng các biện pháp xử lý.
- rất cần thiết nhưng không phải ở công đoạn này mà ở công đoạn tuyên truyền giáo dục cho nguời ta hiểu biết nhận thức được hành vi của mình Cần có sự phân định định lượng để tránh sự nhầm lẫn, chồng chéo giữa các đối tượng bị áp dụng ở các biện pháp, bởi như hiện nay thì chưa rõ ràng do các tiêu chí ráp danh, dễ đưa nhầm địa chỉ, ví như giữa biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng và đưa vào trường giáo dục.
- Về đối tượng bị áp dụng biện pháp này: cần quy định rõ về định lượng đối với hành vi “trộm cắp vặt, lừa đảo nhỏ, đánh bạc nhỏ, gây rối trật tự công cộng”.
- Đồng thời cũng nâng cao hơn tính nghiêm minh, răn đe của quy định này..
- Qua thực tế, cần xác định lại đối tượng bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn có tính chất mở và mềm dẻo hơn mà không nên xác định cứng như quy định của Pháp lệnh, vì đây chỉ là một biện pháp giáo dục tại cộng đồng đối với người vi phạm, không mang tính cưỡng chế cao.
- Theo chúng tôi không nên tiếp tục quy định biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn như một bước đệm để áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác như vậy vì rất bó tay, khó khăn trong thực tiễn, việc áp dụng máy móc như vậy sẽ hạn chế hiệu quả áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác.
- Chẳng hạn có đối tượng mà do nhân thân, môi trường sống cũng như tính chất, mức độ hành vi vi phạm của người đó nếu áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn sẽ không hiệu quả, cần thiết phải đưa đi cơ sở giáo dục, nhưng nếu quy định hiện nay thì sẽ.
- không áp dụng được biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục nếu người đó chưa được áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn..
- Cần xem xét, sửa đổi biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, trong đó nên quy định cách thức giáo dục riêng đối với người nghiện ma túy, bao gồm cả biện pháp hỗ trợ cai nghiện tại cộng đồng khi giáo dục người đó, vì nghiện ma túy là một tình trạng bệnh lý, nếu chỉ giáo dục, thuyết phục mà không kèm theo việc cai nghiện, chữa trị thì hầu như không thể giúp người nghiện từ bỏ được ma túy.
- Tăng cường kết hợp giáo dục tại xã, phường, thị trấn với áp dụng các chế độ cai nghiện tại gia đình, cộng đồng với những người nghiện ma túy chưa đến mức đưa vào cơ sở chữa bệnh..
- Về thời hiệu áp dụng biện pháp giáo dục, thi hành quyết định giáo dục tại cấp xã, phường, thị trấn - giữ nguyên như quy định hiện nay là 6 tháng: kể từ khi thực hiện hành vi vi phạm.
- Tuy vậy, nên sửa đổi quy định về.
- “Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hết thời hiệu sau 1 năm (thay vì quy định hiện nay là 06 tháng) kể từ ngày ra quyết định.
- Do vậy, quy định 1 năm là phù hợp để có thể đưa được họ vào điều kiện giáo dục để cải tạo họ thành những công dân tốt.
- nhưng phải để thành một phần riêng biệt - trong đó có cả các quy định nội dung và các quy định thủ tục.
- Nhưng cho dù ở chung hay ở riêng thì cũng cần thiết phải xác định lại nội dung, hình thức cho phù hợp, các biện pháp xử lý hành chính khác này có rất nhiều đặc thù cả về phương diện pháp lý và phương diện xã hội - tâm lý - kinh tế - kỹ thuật..
- Vấn đề “tư pháp hoá” hay “hành chính hoá” việc áp dụng các biện pháp này: về bản chất thì phải thuộc “tư pháp” nhưng xét vào điều kiện cụ thể hiện nay cả về mặt pháp lý và xã hội thì chúng ta trước mắt chỉ có thể theo hướng hành chính là khả thi hơn cả.
- Áp dụng phương pháp phân loại các nhóm hành vi để tránh việc phải liệt kê chi tiết và sẽ khó khăn trong thực tế áp dụng trước biến động của tình hình xã hội.
- Xây dựng hệ thống pháp luật theo hướng hạn chế dần việc quy định các biện pháp xử lý có liên quan đến các quyền, tự do của cá nhân theo thủ tục hành chính..
- Cần mở rộng đối tượng áp dụng giáo dục tại cấp xã và không nên mở rộng đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng và cơ sở giáo dục.
- Xác định lại đối tượng bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn có tính chất mở và mềm dẻo hơn mà.
- không nên xác định cố định cứng nhắc như hiện nay, vì đây chỉ là một biện pháp giáo dục tại cộng đồng đối với người vi phạm rất quan trọng.
- Đổi mới nội dung trong việc áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp xã, kết hợp cai nghiện tập trung với cai nghiện tại cộng đồng..
- [1] Lê Ngọc Thạch, Hoàn thiện các biện pháp xử lý hành chính khác theo pháp luật Việt Nam, Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp, Thông tin chuyên đề số .
- [2] Bộ Tư pháp, Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính ngày 1/11/2005..
- [3] Trần Minh Hương, Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, Tạp chí Luật học .
- [4] Nguyễn Quốc Việt, Sự cần thiết và quan điểm chỉ đạo sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, Tạp chí Dân chủ và pháp luật