« Home « Kết quả tìm kiếm

Vẻ đẹp ngôn từ, nghệ thuật trong truyện Kiều của Nguyễn Du thông qua một số đoạn trích đã học


Tóm tắt Xem thử

- Vẻ đẹp ngôn từ, nghệ thuật trong truyện Kiều của Nguyễn Du qua một số đoạn trích đã học.
- Xưa nay, nghiên cứu ngôn từ nghệ thuật trong Truyện Kiều, người ta thường hay chú ý trước hết đế những chỗ dùng từ chính xác, từ hay, tinh tế thường được gọi là lối dùng từ đắt của Nguyễn Du, cũng như cách dùng hư từ, khối lượng từ đồng nghĩa, từ có phong cách khẩu ngữ, từ mang phong vị ca dao, thành ngữ, tục ngữ.
- Ví như hai từ đầy đặn, nở nang trong câu thơ “Khuôn trăng đầy đặn / Nét ngài nở nang” khi tác giả dùng để miêu tả Thuý Vân.
- Hai chữ thua, nhường trong câu thơ “Mây thua nước tóc , tuyết nhường màu da” dùng để chỉ thiên nhiên và cũng chính là tạo hoá sẽ chịu thua mái tóc mây, dài, xanh mượt, màu da trắng như tuyết để nhường bước cho nàng đi trên con đường bằng phẳng, không hề có chông gai..
- Hay như chữ thông minh trong câu “Thông minh vốn sẵn tính trời” dùng để nhấn mạnh trí tuệ thiên bẩm của nàng Kiều mà nhiều người cho rằng đó là một nhãn tự nhờ cách nhà thơ đưa từ này lên đầu câu, nó không chỉ nhằm khắc hoạ một tính cách mà là cả một nhân cách.
- Trong tác phẩm Truyện Kiều, Nguyễn Du đã nhiều lần viết về tài hoa và trí tuệ theo kiểu ấy.
- Còn như từ não trong câu “Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”.
- Ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng từ não rất chính xác.
- Nó không chỉ đơn thuần là sầu, buồn, là những từ diễn đạt nỗi buồn trên sắc diện con người mà là não (não lòng, não nuột).
- Âm thanh của từ ngữ này dường như xoáy sâu vào tâm can người đọc.
- Nhiều người cho rằng, Nguyễn Du sử dụng từ ngữ rất đắt.
- Đó là trường hợp câu thơ “Mày râu nhẵn.
- nhụi, áo quần bảnh bao” mà nhà thơ dùng để khắc hoạ nhân vật Mã Giám Sinh lúc đến hỏi Kiều về làm vợ.
- Bởi nhẵn nhụi là từ ngữ người ta thường dùng để chỉ độ trơn, bóng, láng của đồ vật, chứ không phải dùng để chỉ tính chất trang nhã, lịch sự của con người.
- Đặc sắc nhất vẫn là cách dùng từ trong câu “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng.
- một cử chỉ vội vàng, khiếm nhã khiến Nguyễn Du phải hạ ngay một từ sỗ sàng.
- Cái cách cò kè thêm bớt đến cả một giờ lâu rồi mới ngã giá vàng ngoài bốn trăm thì Nguyễn Du đã lột tả được bộ mặt gớm ghiếc, giả dối của Mã Giám Sinh.
- Hắn đã hiện nguyên hình là một gã con buôn lọc lõi chỉ cần biết một điều là làm sao mua được món hàng với giá hời nhất, chỉ cần một vốn mà có đến bốn lời là được.
- Chỉ với một từ cò kè rất con buôn, Nguyễn Du đã cho ta thấy được bộ mặt tàn ác, dơ bẩn nhất của bọn buôn thịt bán người mà Mã Giám Sinh là đại diện..
- hay nhớ cũng là nghĩ đến những điều tốt đẹp nhưng lại có thêm ý mong mỏi có ngày gặp lại thì tưởng cũng là mơ là nhớ nhưng với Kiều chỉ là tưởng, chỉ xem mối tình đầu trong trắng, ngây thơ của mình là một kỉ niệm đẹp, không dám mơ tưởng những gì xa xôi lại càng không dám mong gì ngày gặp lại.
- Nhưng Nguyễn Du không dùng thương hay nhớ mà lại dùng một chữ xót ở đầu câu thơ.
- Ngay cả việc sử dụng điệp ngữ buồn trông ở cuối đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích ta càng thấy Nguyễn Du không hề vô tình khi đặt chữ buồn đứng trước chữ trông.
- Đọc Truyện Kiều ta còn bắt gặp được nhiều câu thơ, nhiều từ ngữ đặc sắc như thế.
- Cụ Nguyễn Du dùng chữ cậy là tuyệt hay vì nếu thay chữ nhờ và chữ nghe lời vào thì câu thơ sẽ là Nhờ em em có nghe lời thành ra quá áp đặt, câu thơ trở nên tầm thường, nhạt nhẻo, không còn ý vị gì nữa.
- Chỉ mới nghe câu thơ ấy thôi cũng đủ biết rằng mụ Tú Bà giận dữ lắm, dáng bộ hung hăng, vội vàng lắm, mặc dù điều đó nằm trong âm mưu của mụ nó hoàn toàn khác cái vẻ thong dong khi mụ dạy Kiều nghề chơi.
- câu 2.227.
- Hay như chữ chặn trong cặp câu thơ trong màn Đoàn viên: “Thân tàn chặn đục khơi trong/ Là nhờ quân tử khác lòng người ta”.
- Nguyễn Du dùng chặn mà không dùng gạn.
- Nhìn chung, từ ngữ Truyện Kiều không chỉ hay mà còn rất đắt, rất độc đáo.
- Nhiều chữ được dùng đi, dùng lại rất nhiều lần nhưng với một nét nghĩa mới nên không thấy nhàm chán như 63 trường hợp sử dụng từ thân, 59 từ xuân, 14 từ ngựa, rất nhiều lần sử dụng chữ tâm và chữ tài..
- Ngay như chữ chút là một uyển ngữ rất khó dùng, thế mà Nguyễn Du sử dụng được 47 chữ như thế.
- Vấn đề sử dụng từ ngữ ước lệ trong Truyện Kiều.
- Là nhà thơ thiên tài của dân tộc, Nguyễn Du là người chiụ ảnh hưởng rất lớn thi pháp cổ điển về khắc hoạ, xây dựng hình tượng nhân vật Vì thế ngôn từ ước lệ được sử dụng nhiều trong Truyện.
- Cũng giống như người xưa, nhà thơ đã lấy vẻ đẹp của thiên nhiên như tuyết - mai, trăng - hoa, mây - tuyết, thu thuỷ - xuân sơn, hoa - liễu …Làm chuẩn mực, làm thước đo giá trị, vẻ đẹp của con người.
- Tả nàng Vân kiều diễm, Nguyễn Du dùng khuôn trăng, nét ngài, hoa cười, ngọc thốt , mây thua, tuyết nhường cùng với một số từ nôm na như khác vời và những từ ngữ đầy đặn, nở nang vừa khắc hoạ được vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu của nàng Vân, vừa như dự báo được cuộc sống sau này rất bình lặng của nàng..
- Còn với Kiều, Nguyễn Du đã dùng vẻ đẹp của Thuý Vân để bẫy vẻ đẹp của Kiều.
- Nhà thơ đã dùng đến 12 câu thơ để khắc hoạ về Kiều.
- Điều đó chứng tỏ nhà thơ đã dành cho nhân vật chính của mình một tình cảm hết sức đặc biệt.
- Thật là một dung nhan rực rỡ, sắc sảo mặn mà, vừa có duyên, vừa có hồn.
- Là một nghệ sĩ về ngôn từ, Nguyễn Du không sử dụng những thi liệu cổ ấy một cách máy móc rập khuôn mà sự sáng tạo của nhà thơ là rất lớn.
- Nói tới nỗi buồn của người đẹp, nhà thơ gắn với những thềm hoa, lệ hoa, rồi nét buồn như cúc, điệu gầy như mai … Nói chung, qua việc sử dụng những thi liệu cổ nhà thơ đã tạo ra những từ ngữ rất riêng, rất Nguyễn Du, nhưng vẫn là ngôn ngữ dân tộc..
- Ngôn từ thiên nhiên (vũ trụ thi ca) của Truyện Kiều..
- Theo tác giả Đặng Tiến thì vũ trụ thi ca trong Truyện Kiều là một không gian với chân trời rộng..
- Ngoài thảm cỏ non phải xanh tận chân trời (Cảnh ngày xuân) thì không gian còn là một vũ trụ rộng, trống, mờ xa tít tắp với vẻ non xa, tấm trăng gần.
- Đó là một vũ trụ từ chối cuộc sống, từ chối con người - một vũ trụ mà cảnh vật bốn bề bát ngát xa trông, bên thì cồn cát nhấp nhô như sóng lượn, bên thì bụi hồng trải dài khắp dặm xa mênh mông..
- Ngoài ra, trong Truyện Kiều, Nguyễn Du còn sử dụng rất nhiều ngôn từ vũ trụ thi ca: Con đường khuya thì phải ngắt tạnh mù khơi, màu của rừng thu phải là màu quan san, khung trời thương nhớ phải gợn áng mây Tần xa xa, đến túp lều cỏ bên sông Tiền Đường cũng phải là “Một gian nước biếc mây vàng chia đôi”.
- Rồi đến cảnh màu xanh tơ liễu bên cầu, gió cây trút lá, mấy ngàn dâu xanh xuất hiện trong Truyện Kiều những giờ phút chia phôi, những lúc bước chân ngập ngừng, những lúc tâm hồn phân tán … Dường như nhà thơ muốn thu nhận cả đất trời nhân loại bằng cái nhìn phơi trải trong hình ảnh non phơi bóng vàng, cái nhìn đo lường kích thước cuộc sống hằng ngày để xác định vị trí, tầm sống của mình trước cuộc đời..
- Về ngôn từ chỉ màu sắc trong Truyện Kiều.
- Truyện Kiều có nhiều từ ngữ chỉ màu sắc (có đến 119 lần), với nhiều màu khác nhau.
- Nguyễn Du dùng từ chỉ màu sắc để tạo thành các hình tượng có nội dung khái quát, rộng lớn và giàu giá trị thẩm mỹ..
- Trước hết cần xét từ ngữ chỉ màu sắc trong các đoạn trích học (sách Ngữ Văn 9 - tập 1): Tả nàng Vân với mái tóc dài, mượt còn xanh hơn cả mây.
- Ở đây, Nguyễn Du dùng màu mây thay cho màu đen của mái tóc.
- Bởi trong Truyện Kiều chưa có màu đen có ý nghĩa đẹp cho nên tóc đen đẹp được gọi là tóc mây.
- Những màu sắc có sự hài hoà tới mức tuyệt dịêu làm cho bức tranh thiên nhiên càng thêm tươi đẹp - những màu sắc tươi sáng, đầy sức sống..
- Không chỉ có màu trắng, màu xanh, Nguyễn Du còn đề cập đến màu vàng, màu hồng trong câu.
- Đó không chỉ đơn thuần là sắc vàng của cồn cát nhấp nhô, sắc hồng của từng đám bụi cuốn lên từng dặm xa mênh mông mà còn là cát bụi của cuộc đời.
- Trong Truyện Kiều, từ ngữ chỉ màu sắc ít có tính chất tả thực mà nặng về tính biểu trưng.
- Với Nguyễn Du, màu sắc là sản phẩm của cảnh vật và tâm lý.
- Màu sắc trong Truyện Kiều còn là màu sắc của tình cảm.
- Có thể nói, Nguyễn Du không chỉ nắm bắt sắc màu của sự vật mà còn nắm bắt và diễn tả cả sắc màu tình cảm nhuốm đậm lên cảnh vật, không gian làm cho phong cảnh trở nên sinh động, có hồn.
- 4.Về cách sử dụng hư từ.
- Theo ý kiến của nhiều người thì vấn đề dùng hư từ chỉ có Truyện Kiều của Nguyễn Du là dùng đúng nhất.
- Cụ thể là các chữ : bao, bấy được dùng một cách độc chiếc trong Truyện Kiều.”Trải bao thỏ lặn ác tà”.
- Nhà thơ Nguyễn Du đã đặt sau các chữ bao, bây, bấy một chữ để làm thành liên tự chỉ thời gian như : bao giờ, bây giờ, bấy giờ … Những hư từ này được sử dụng nhiều trong Truyện Kiều Các liên từ: bao nhiêu, bấy nhiêu cũng được sử dụng một cách linh hoạt trong tác phẩm, cụ thể là 3 trường hợp sau:.
- Bao nhiêu dùng độc chiếc không đi đôi với bấy nhiêu..
- Bao nhiêu đi đôi với bấy nhiêu … 5 .
- Sự sáng tạo của Nguyễn Du trong việc sử dụng ngôn từ nghệ thuật a/ Trước hết, cần nói đến từ ngữ mang phong vị ca dao, thành ngữ, tục ngữ.
- Ở đoạn thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc nhất trong Truyện Kiều, xuất hiện một tứ thơ mang phong cách thành ngữ tục ngữ .
- Để diễn tả nỗi lòng tưởng nhớ người yêu, xót thương cha mẹ, Nguyễn Du đã biểu đạt tâm tư ấy qua chiều dài của thời gian và khoảng cách của không gian như: dưới nguỵêt chén đồng, rày trông mai chờ, tựa cửa hôm mai cách mấy nắng mưa, chân trời góc bể, tấm son gột rửa, hoa trôi man mác, nội cỏ dàu dàu, chân mây mặt đất, gió cuốn mặt duềnh, ầm ầm tiếng sóng… Những từ ngữ này làm cho cách sử dụng ngôn từ trở nên gần gũi, dễ hiểu, mang đậm màu sắc dân tộc..
- b/ Cách tạo từ mới đặc sắc trong Truyện Kiều.
- Nguyễn Du đã tạo ra hàng loạt ngôn từ không có trong thực tế, cũng không có trong từ điển thông thường.
- mà theo ông Trần Đình Sử đó là những ngôn từ ý tượng (là hình ảnh chỉ nảy sinh trong tâm tưởng, không phải là hình ảnh sao chép thực tại) có cấu tạo riêng, nói lên sự cảm thụ chủ quan của tác giả:.
- Nói đến giấc ngủ thì ông nói giấc xuân, giấc mai, giấc hoè, giấc tiên, giấc nồng … Nói tới mái tóc, không chỉ là tóc mây, tóc sương mà là mái sầu..
- Nói tới đường xa, ông nói thành dặm hồng, dặm xanh, dặm băng, dặm khách, dặm phần … Nói tới chén rượu ông lại nói tới chén xuân, chén quỳnh, chén đưa, chén mời , chén khuyên chén đồng … mang đầy sắc thái khác nhau của tình huống.
- Những ngôn từ ý tượng này cũng là phương diện cơ bản của ngôn từ nghệ thuật Truyện Kiều..
- Nguyễn Du đã phá vỡ cách tạo từ thông thường để tạo từ mới gây hiệu quả lạ hoá.
- Nhà thơ cũng đã phá vỡ nhiều cấu trúc cố định để tạo thành những kết hợp không đâu có.
- này diễn đạt một trạng thái sự vật có ý nghĩa phổ quát, diễn ra nhiều lần và chỉ hiểu được trong ngữ cảnh tác phẩm Truyện Kiều mà thôi..
- Nói tóm lại, trong văn học Tiếng Việt, chỉ đến Truyện Kiều của Nguyễn Du thì ngôn từ mới tự đứng lên biểu diễn như một nghệ thuật.
- Nói Nguyễn Du là nhà nghệ sĩ lớn về ngôn từ chính là nói đến cách ứng xử nghệ thuật của ông đối với ngôn ngữ dân tộc và hiệu quả của nó.
- Điều này có ý nghĩa đặc biệt đối với việc sáng tạo ngôn ngữ thi ca nói chung mà Nguyễn Du là một tấm gương tiêu biểu.