« Home « Kết quả tìm kiếm

Về khái niệm miễn trách nhiệm hình sự


Tóm tắt Xem thử

- Về khái niệm miễn trách nhiệm hình sự.
- Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định nhân đạo của Luật hình sự Việt Nam, có liên hệ chặt chẽ và cùng cơ sở với trách nhiệm hình sự.
- Qua việc nghiên cứu chế định trách nhiệm hình sự và chế định miễn trách nhiệm hình sự, tác giả đã phân tích và làm rõ khái niệm và các đặc điểm cơ bản của miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999..
- Trách nhiệm hình sự (TNHS) là một dạng của trách nhiệm pháp lý và được thể hiện bằng việc người phạm tội bị áp dụng một hoặc nhiều các biện pháp cưỡng chế hình sự khác nhau của Nhà nước do Luật hình sự quy định.
- Do đó, để công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm đạt hiệu quả cao, cùng với việc phân loại tội phạm, Luật hình sự Việt Nam cũng đồng thời phân hóa các trường hợp phạm tội, các đối tượng phạm tội khác nhau để có đường lối xử lý phù hợp, nhanh chóng, chính xác, công bằng và đúng pháp luật.
- Đó là trường hợp khi có đầy đủ những điều kiện nhất định, thì một người đã phạm tội họ có thể không phải chịu TNHS, có thể được miễn TNHS..
- Là một trong những chế định quan trọng pháp luật hình sự (PLHS) Việt Nam, miễn TNHS thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với người phạm tội và hành vi do họ thực hiện, đồng thời nhằm động viên, khuyến khích người phạm tội lập công chuộc tội, chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo nhanh chóng, hòa nhập với cộng đồng và trở thành người có ích cho xã hội.
- Do đó, việc quy định trong Bộ luật hình sự (BLHS) Việt Nam chế định này thể hiện phương châm đúng đắn của đường lối xử lý về hình sự, bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa các biện pháp cưỡng chế hình sự nghiêm khắc của Nhà nước với các biện pháp tác động xã hội khác để cải tạo, giáo dục người phạm tội, qua đó hạn chế áp dụng các biện pháp mang tính trấn áp về mặt hình sự.
- Miễn TNHS cũng có quan hệ mật thiết và chặt chẽ với chế định TNHS.
- Đến lần pháp điển hóa lần thứ hai Luật hình sự Việt Nam bằng việc thông qua BLHS năm 1999, các quy định về miễn TNHS cũng được được sửa đổi, bổ sung và tiếp tục hoàn thiện hơn.
- Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy chế định miễn TNHS vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện..
- Chẳng hạn, cả BLHS năm 1985 cũng như BLHS năm 1999 đều chưa đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm miễn TNHS, bản chất và hậu quả pháp lý cụ thể của việc miễn TNHS hoặc hàng loạt vấn đề khác xung quanh khái niệm này cần được hướng dẫn kịp thời bởi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền [1].
- Khái niệm trách nhiệm hình sự và mối liên hệ với miễn trách nhiệm hình sự.
- Là các chế định quan trọng của Luật hình sự Việt Nam, TNHS có quan hệ chặt chẽ và gắn liền với chế định miễn TNHS.
- Ở một góc độ rộng hơn, chế định miễn TNHS lại là một chế định nhỏ nằm trong chế định lớn - TNHS, và miễn TNHS cũng được xem là một trong các hình thức để thực hiện TNHS..
- Bên cạnh đó, khái niệm, cơ sở và nội dung của miễn TNHS cũng xuất phát từ khái.
- Do vậy, trước khi đi vào nghiên cứu khái niệm miễn TNHS trong mục II chúng ta cần phải hiểu khái niệm TNHS và mối liên hệ giữa nó với miễn TNHS trong Luật hình sự Việt Nam..
- Trách nhiệm hình sự là một thuật ngữ pháp lý và được sử dụng đối với người có hành vi vi phạm PLHS.
- Là một dạng của trách nhiệm pháp lý, từ trước đến nay, xung quanh khái niệm “trách nhiệm hình sự” vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau.
- Theo một trong những nhà khoa học Luật hình sự hàng đầu và có tên tuổi của đất nước, PGS.TSKH.
- Lê Cảm dẫn ra tại Sách chuyên khảo Sau đại học của mình thì trong khoa học Luật hình sự của Liên Xô trước đây và Liên bang Nga hiện nay có một số quan điểm chính về TNHS như sau:.
- b) phải chịu biện pháp tác động về mặt pháp lý hình sự bao gồm những sự tước bỏ, đau đớn, mà pháp luật quy định đối với người đó.
- 5) TNHS chỉ là trách nhiệm của người về tội phạm đã thực hiện, được thể hiện trong sự tác động mang tính cưỡng chế từ phía Nhà nước và phù hợp với Luật hình sự...[2, tr.605-607]..
- Ngoài ra, trong khoa học Luật hình sự một số nước khác, nói chung về cơ bản, TNHS được hiểu là sự phản ứng (hay sự lên án) của Nhà nước (hay và xã hội) đối với người thực hiện hành vi phạm tội và thể hiện ở bản án mà trong đó họ bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế để tước bỏ hoặc hạn chế các quyền nhất định.
- Hiện nay, trong khoa học Luật hình sự Việt Nam cũng còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, ví dụ như:.
- “TNHS là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Luật hình sự quy định”[5, tr.122];.
- TNHS là một dạng trách nhiệm pháp lý bao gồm: nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu TNHS, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu mang án tích”[8, tr .
- Như vậy, dưới góc độ khái quát và chung nhất, trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý và là hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Luật hình sự quy định đối với người phạm tội.
- Do đó, cơ sở của TNHS là việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Luật hình sự quy định là tội phạm (cơ sở khách quan) và do người có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó gây nên (cơ sở chủ quan).
- Trong khi đó, điều kiện của TNHS (góc độ chung) là “căn cứ riêng cần và đủ, có tính chất bắt buộc và do Luật hình sự quy định mà chỉ khi nào có tổng hợp tất cả chúng (các căn cứ riêng đó) thì một người mới phải chịu TNHS”[13, tr.30].
- Hành vi do người đó thực hiện phải bị Luật hình sự quy định là tội phạm và;.
- Nếu TNHS chỉ xuất hiện khi có sự việc phạm tội và nó chỉ được thực hiện trong phạm vi của quan hệ PLHS giữa một bên là Nhà nước còn bên kia là người phạm tội, thì trong trường hợp người này được miễn TNHS thì TNHS cũng coi như chấm dứt.
- Một là, chế định thứ nhất (TNHS) nhằm giải quyết chính xác vấn đề TNHS và hình phạt của người phạm tội, thể hiện sự trừng trị (lên án, phản ứng) của Nhà nước và xã hội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội mà Luật hình sự quy định là tội phạm.
- trong đường lối xử lý của Nhà nước ta, cũng như yêu cầu không cần thiết phải truy cứu TNHS người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Luật hình sự quy định là tội phạm, mà vẫn bảo đảm yêu cầu đấu tranh.
- Hai là, nếu như TNHS là hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội phải chịu do đã thực hiện hành vi phạm tội và được thể hiện bằng việc áp dụng đối với họ một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước do Luật hình sự quy định, thì miễn TNHS có nghĩa không buộc người phạm tội phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi của việc phạm tội đó, mà lẽ ra, nếu không có những điều kiện do luật định, thì người đó phải chịu TNHS theo quy định của PLHS trên những cơ sở chung..
- Bên cạnh đó, nếu cơ sở của TNHS là việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Luật hình sự quy định là tội phạm do người có lỗi thực hiện, thì cơ sở của miễn TNHS là việc có những điều kiện do Luật hình sự quy định để không buộc một người phải chịu TNHS, mặc dù người đó đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị Luật hình sự cấm và lẽ ra họ phải chịu TNHS.
- Không thể áp dụng miễn TNHS đối với người không có hành vi thỏa mãn dấu hiệu pháp lý của một cấu thành tội phạm được quy định trong Luật hình sự”[10, tr.19]..
- Ba là, đối tượng bị áp dụng TNHS và được áp dụng miễn TNHS đều là người phạm tội, tức là người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Luật hình sự quy định là tội phạm.
- hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc về mặt hình sự của Nhà nước) và đặc biệt người phạm tội phải chịu mang án tích (nếu bị áp dụng hình phạt).
- Trong khi đó, người được miễn TNHS cũng là người phạm tội nhưng trường hợp phạm tội của họ lại có đầy đủ những điều kiện để được miễn TNHS..
- Đối với trường hợp này, họ đương nhiên không phải chịu các hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của việc phạm tội do mình thực hiện như: (có thể) không bị truy cứu TNHS, không phải chịu hình phạt hoặc biện pháp cưỡng chế về hình sự khác và đặc biệt không bị coi là có án tích..
- Tuy nhiên, người được miễn TNHS vẫn có thể phải chịu một hoặc nhiều biện pháp tác động về mặt pháp lý thuộc các ngành luật tương ứng khác như: TTHS, dân sự, hành chính, lao động hoặc biện pháp kỷ luật....
- TNHS cho người phạm tội (Điều 181 và Điều 249 Bộ luật TTHS năm 2003)..
- Như vậy, hai chế định đã nêu (TNHS và miễn TNHS) đều có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết có căn cứ và đúng đắn nội dung: “xử lý đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan người vô tội” thể hiện trong phương châm của đường lối xử lý về hình sự:.
- Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự.
- Cũng là một trong những chế định quan trọng trong Luật hình sự Việt Nam, miễn TNHS thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước ta đối với người phạm tội, đồng thời qua đó nhằm động viên, khuyến khích người phạm tội lập công chuộc tội, chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng và giúp họ trở thành người có ích cho xã hội.
- Nhóm 1: Quy định về các biện pháp miễn hình phạt, miễn giảm hình phạt hoặc miễn trừ hình phạt mà không có biện pháp miễn TNHS trong PLHS.
- Nhóm 2: Quy định bao gồm cả các biện pháp trong nhóm 1, ngoài ra có thêm biện pháp miễn TNHS trong PLHS.
- Nhóm 3: Quy định tất cả các biện pháp trong cả nhóm 1 và nhóm 2 đã nêu, nhưng riêng bản chất pháp lý của biện pháp miễn TNHS lại hoàn toàn khác theo quan điểm của các nhà làm luật Việt Nam thể hiện trong PLHS.
- Như vậy, tương tự như khái niệm TNHS, trong khoa học Luật hình sự ở một số nước còn quy định khái niệm miễn TNHS cho thấy:.
- 1) Trong khoa học Luật hình sự nước ngoài, hiện nay còn tồn tại một số quan điểm khác nhau..
- a) Có quan điểm cho rằng miễn TNHS là.
- b) Quan điểm khác lại khẳng định miễn TNHS là “một nguyên tắc của Luật hình sự dựa trên cơ sở xung đột về lợi ích, dùng để chỉ ra rằng không có tội phạm được thực hiện mặc dù trên thực tế hành vi của một người nào đó đã thỏa mãn cả yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan đối với một loại tội phạm..
- c) Quan điểm thứ ba quan niệm miễn TNHS là “chế định được quy định trong Luật hình sự.
- Nếu đánh giá cả dưới góc độ khoa học và thực tiễn của Luật hình sự Việt Nam, chúng tôi không đồng ý với các quan điểm này bởi một số lý do sau:.
- Một là, nếu coi miễn TNHS chỉ là việc hủy bỏ sự đánh giá tiêu cực đối với người phạm tội dưới hình thức một bản án là chưa đầy đủ và chưa bao quát, đồng thời mới chỉ xem nó được áp dụng hạn chế về phạm vi chủ thể, giai đoạn và văn bản áp dụng.
- Bởi lẽ, theo quy định của PLHS nước ta, miễn TNHS do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng bao gồm: Cơ quan điều tra với sự phê chuẩn của Viện kiểm sát (1), Viện kiểm sát (2) và Tòa án (3) tùy thuộc vào các giai đoạn TTHS tương ứng (các điều và 249 Bộ luật TTHS năm 2003).
- Do đó, nếu người phạm tội được miễn TNHS trong các giai đoạn trước khi xét xử (giai đoạn điều tra, truy tố) thì không chỉ là sự hủy bỏ sự đánh giá tiêu cực đối với người đó dưới hình thức một bản án, mà còn là sự hủy bỏ hậu quả tiêu cực (chấm dứt hoạt động tố tụng hình sự đối với vụ án và cả đối với người phạm tội) dưới hình thức văn bản đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án nữa, đồng thời trong đó thể hiện nội dung như:.
- Hai là, cũng không thể coi miễn TNHS là.
- “một nguyên tắc của Luật hình sự.
- nước ta miễn TNHS chỉ là một trong các nội dung (hay quy phạm) thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam (chứ không phải là một nguyên tắc cơ bản theo đúng nghĩa là tư tưởng có tính chất chỉ đạo thể hiện trong hoạt động xây dựng, áp dụng và giải thích PLHS), được áp dụng khi xét thấy không cần thiết phải truy cứu TNHS người phạm tội mà vẫn bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như nội dung giáo dục, cải tạo họ khi có những điều kiện nhất định.
- Ngoài ra, hành vi của người phạm tội được miễn TNHS đã thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm tương ứng nào đó trong Phần các tội phạm của BLHS (thỏa mãn cả yếu tố khách quan lẫn yếu tố chủ quan của tội phạm)..
- Nhấn mạnh hơn, người được miễn TNHS hoàn toàn đáp ứng các điều kiện với tư cách là chủ thể của tội phạm.
- Trường hợp miễn TNHS hoàn toàn khác biệt với trường hợp không có tội phạm trên thực tế về nội dung, bản chất và hậu quả pháp lý..
- chất pháp lý, điều kiện và đối tượng bị áp dụng cũng như hậu quả pháp lý tương ứng sau đó như quy định về miễn TNHS trong PLHS nước ta, do đó, nó chỉ có giá trị tham khảo làm định hướng hoàn thiện hơn khái niệm miễn TNHS và việc ghi nhận cũng như nhận thức chế định này trên thực tế để áp dụng chính xác và đúng đắn..
- 2) Còn trong khoa học Luật hình sự Việt Nam, về cơ bản các nhà khoa học - luật gia đều thống nhất nội dung của khái niệm miễn TNHS, song tổng kết lại chúng tôi có thể chia làm năm nhóm chính sau:.
- a) Nhóm thứ nhất (ghi nhận nội dung và chỉ rõ bản chất pháp lý): Miễn TNHS là “một chế định nhân đạo của Luật hình sự Việt Nam và được thể hiện bằng việc xóa bỏ hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị Luật hình sự cấm đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó”[14, tr.7];.
- b) Nhóm thứ hai (ghi nhận nội dung và hậu quả pháp lý, nhưng không đề cập thẩm quyền áp dụng và giai đoạn áp dụng): Miễn TNHS là “miễn những hậu quả pháp lý đối với một tội phạm do pháp luật quy định”[6, tr.269].
- hay là “không buộc tội một người chịu trách nhiệm hình sự về tội mà họ đã thực hiện”[15, tr.321];.
- c) Nhóm thứ ba (ghi nhận nội dung và hậu quả pháp lý trực tiếp trong giai đoạn tương ứng là xét xử, nhưng không ghi nhận thẩm quyền áp dụng): Miễn TNHS là “miễn kết tội cũng như áp dụng hình phạt đối với người thực hiện tội phạm và do vậy họ không bị coi là có tội”[16, tr.19];.
- d) Nhóm thứ tư (ghi nhận tương đối đầy đủ về nội dung, phân định các giai đoạn áp dụng, thẩm quyền áp dụng và hậu quả pháp lý): Miễn TNHS là “miễn truy cứu TNHS và đương nhiên kéo theo cả miễn phải chịu các hậu quả tiếp theo do việc thực hiện TNHS từ phía.
- Trên thực tế có thể có trường hợp người phạm tội được Tòa án miễn TNHS trong giai đoạn xét xử.
- Trong trường hợp này, miễn TNHS chỉ bao gồm miễn chịu biện pháp cưỡng chế của TNHS và miễn mang án tích”[10, tr.19];.
- đ) Nhóm thứ năm (ghi nhận nội dung, thẩm quyền áp dụng và đặc biệt là hình thức pháp lý): Miễn TNHS là “không truy cứu TNHS một người về việc đã thực hiện một tội phạm được quy định trong Luật hình sự, thể hiện trong một văn bản của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền”[17, tr.238]....
- Như vậy, về cơ bản tất cả các quan điểm trên đây về khái niệm miễn TNHS đều đầy đủ về nội dung, ngắn gọn và điều quan trọng là thống nhất trong việc khẳng định rõ nội dung và bản chất pháp lý của chế định này..
- Tuy nhiên, để đưa ra một khái niệm đầy đủ và chính xác về nội dung, ngắn gọn và nhất quán về ngôn ngữ pháp lý, đồng thời phù hợp với thực tiễn xét xử và chính sách nhân đạo của Nhà nước, theo chúng tôi khái niệm miễn TNHS dưới góc độ khoa học Luật hình sự phải thể hiện những nội dung sau: a) bản chất pháp lý.
- d) hậu quả pháp lý hình sự và.
- Riêng nội dung về hình thức pháp lý của nó chúng tôi cho rằng vấn đề này được thể hiện trong Luật hình thức (Luật TTHS) nên dưới góc độ khoa học Luật hình sự không cần thiết phải ghi nhận nội dung này nữa..
- Do đó, trên cơ sở xem xét các quan điểm khoa học đã nêu, kết hợp với việc phân tích các quy định của PLHS có liên quan, dưới góc độ khoa học Luật hình sự, theo chúng tôi khái niệm đã nêu có thể được định nghĩa như sau: Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định nhân đạo của Luật hình sự Việt Nam, do cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền tùy.
- thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng áp dụng và được thể hiện bằng nội dung không buộc một người phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm, nếu xét thấy không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự người đó và đáp ứng những điều kiện nhất định..
- Một số đặc điểm cơ bản của miễn trách nhiệm hình sự.
- thì miễn TNHS cũng là một trong những chế định phản ánh rõ nét nhất nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự nói chung và PLHS Việt Nam nói riêng.
- Hồ Sĩ Sơn đã viết: “Nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự là tư tưởng chủ đạo được ghi nhận trong Luật hình sự chỉ đạo hoạt động xây dựng và áp dụng Luật hình sự mà nội dung cơ bản của nó là sự khoan hồng của Luật hình sự đối với người phạm tội.
- Mức độ, phạm vi của sự khoan hồng của Luật hình sự đối với người phạm tội được quyết định bởi điều kiện xã hội và bị ràng buộc bởi các yêu cầu khác của Luật hình sự mà trước hết là công bằng, công lý xã hội”[18, tr.9]..
- Hai là, miễn TNHS chỉ áp dụng đối với người mà trong hành vi của họ thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm BLHS, nhưng đối với họ lại có những điều kiện nhất định để.
- Ba là, miễn TNHS luôn gắn liền và quan hệ chặt chẽ với chế định TNHS trong Luật hình sự Việt Nam.
- Khái niệm và cơ sở của miễn TNHS cũng xuất phát từ khái niệm và cơ sở của TNHS (như đã phân tích ở mục I)..
- Bốn là, theo pháp luật Việt Nam, phụ thuộc vào từng giai đoạn TTHS tương ứng cụ thể, miễn TNHS chỉ được thực hiện bởi một cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và quyết định phải được thể hiện bằng văn bản.
- Năm là, người được miễn TNHS đương nhiên không phải chịu các hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của việc phạm tội do mình thực hiện như: họ (có thể) không bị truy cứu TNHS, không bị kết tội, không phải chịu hình phạt hoặc biện pháp cưỡng chế về hình sự khác và không bị coi là có án tích.
- (chúng tôi nhấn mạnh) chứ không thể khẳng định một cách dứt khoát là: “miễn TNHS đối với người phạm tội tức là miễn truy cứu TNHS...”[19, tr.53].
- Sáu là, trường hợp trong một vụ án hình sự có đồng phạm, nói cách khác tội phạm được thực hiện dưới hình thức đồng phạm, thì việc miễn TNHS chỉ đặt ra đối với người nào nếu đáp ứng đầy đủ những điều kiện do luật định, còn đối với những người đồng phạm khác phải chịu TNHS trên những cơ sở chung.
- Bảy là, việc quy định chế định miễn TNHS trong PLHS Việt Nam còn thể hiện ý nghĩa quan trọng không những động viên, khuyến khích người phạm tội lập công chuộc tội, chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng, mà còn tạo cơ sở pháp lý cho sự kết hợp các biện pháp cưỡng chế hình sự của Nhà nước với các biện pháp tác động xã hội trong việc giáo.
- Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (Phần chung), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2005..
- [7] Đỗ Ngọc Quang, Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về tham nhũng, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 1997..
- [10] Lê Thị Sơn, Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự, Tạp chí Luật học, số 5, 1997..
- [14] Lê Cảm, Về các dạng miễn trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 25 BLHS năm 1999, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1, 2001..
- [17] Kiều Đình Thụ, Tìm hiểu Luật hình sự Việt Nam, NXB Đồng Nai, 1998..
- [18] Hồ Sĩ Sơn, Nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam, Tóm tắt Luận án tiến sĩ Luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội, 2007..
- [19] Lê Văn Luật, Bàn về chế định miễn trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 25 Bộ luật hình sự, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 3, 2006..
- [20] Đào Trí Úc, Luật hình sự Việt Nam, Quyển I - Những vấn đề chung, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2000.