« Home « Kết quả tìm kiếm

Viễn cảnh kinh tế năm 2010 và hàm ý chính sách


Tóm tắt Xem thử

- 2010 Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Viễn cảnh kinh tế năm 2010 và hàm ý chính sách.
- 1 Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), email: [email protected].
- Nghiên cứu này sẽ được công bố như là Chương 8 trong Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam 2010: Lựa chọn để tăng trưởng.
- Viễn cảnh kinh tế Việt Nam năm 2010...3.
- Dự báo kinh tế Việt Nam 2010.
- Viễn cảnh kinh tế Việt Nam năm 2010.
- Với những nỗ lực kích thích kinh tế trong năm 2009 và sự phục hồi kinh tế đang ngày càng rõ ràng của nền kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt Nam trong năm 2010 có nhiều cơ sở để thoát khỏi chu kỳ thu hẹp, hướng tới một thời kỳ tăng trưởng cao hơn..
- So với năm 2009, nhiều yếu tố nền tảng của nền kinh tế sẽ được cải thiện trong năm 2010, trong đó phải kể đến sự phục hồi của cầu đầu tư và cầu tiêu dùng trong nước.
- Cầu xuất khẩu cũng sẽ phục hồi đáng kể do kinh tế thế giới tăng trưởng trở lại.
- Thêm vào đó, dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam có thể sẽ ổn định và vững chắc hơn.
- Tuy nhiên, cần thừa nhận rằng do phải đương đầu với những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng, nên trong thời gian qua những vấn đề căn bản của nền kinh tế hầu như vẫn trong trạng thái của thời kỳ 2006-2007.
- Trong ngắn hạn, những bất ổn vĩ mô vẫn là một cản trở lớn cho tăng trưởng kinh tế và cải thiện môi trường kinh doanh.
- Trong trung và dài hạn, những vấn đề cơ bản như cấu trúc nền kinh tế, sự phát triển của khu vực doanh nghiệp tư nhân, khả năng kết hợp và điều hành chính sách, sẽ là những chướng ngại làm chậm quá trình tăng trưởng của Việt Nam..
- Một điểm đặc biệt đáng lưu ý của Việt Nam là những cân đối vĩ mô lớn như thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại đang có khuynh hướng trở thành căn bệnh kinh niên.
- Đây là nguyên nhân của những bất ổn kinh tế trong ngắn hạn, đồng thời xói mòn tiềm năng tăng trưởng trong trung và dài hạn, đi liền với sự suy yếu khả năng thích nghi của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế..
- Nền kinh tế Việt Nam kể từ những năm 1990, đặc biệt là sau năm 2000, tăng trưởng dựa chủ yếu vào sự gia tăng của các yếu tố đầu vào, trong đó sự gia tăng vốn chủ yếu dựa trên quá trình mở rộng tín dụng.
- Sự mở rộng tín dụng khiến Việt Nam phải đánh đổi lạm phát để có tăng trưởng.
- Có rất nhiều hiện tượng kinh tế bất lợi xuất hiện từ sự tích tụ của những mất cân đối này, như sự suy yếu liên tục của đồng tiền Việt và tình trạng đô la hóa nền kinh tế, đầu tư chậm mở rộng về quy mô, thời hạn.
- Thêm vào đó, trong sự đánh đổi giữa tăng trưởng và bất ổn vĩ mô, giới hoạch định chính sách hiện nay dường như vẫn chú trọng ưu tiên quá nhiều cho tăng trưởng, đặc biệt trong những giai đoạn bất ổn kinh tế ngắn hạn.
- Đúng là tăng trưởng là nhân tố tiên quyết để cải thiện mức sống và điều kiện của một quốc gia còn nghèo như Việt Nam.
- Kinh nghiệm phát triển của các nước trên thế giới cho thấy, những nền kinh tế thành công đều theo đuổi chiến lược tối thiểu hóa số năm tăng trưởng thấp, thay vì tối đa hóa số năm tăng trưởng cao.
- Hay nói cách khác, việc tăng trưởng cần được duy trì cùng với sự ổn định kinh tế vĩ mô nhằm đạt được tăng trưởng trong dài hạn, thay vì hy sinh sự ổn định vĩ mô để đạt được thành tích tăng trưởng nhanh trong một số năm..
- Cuộc khủng hoảng kinh tế vừa qua khiến nhiều nước dựa trên xuất khẩu tự đặt câu hỏi liệu việc phụ thuộc quá nhiều vào thị trường thế giới có phải là một rủi ro hay không, và vì thế đặt vấn đề xem xét lại mô hình tăng trưởng dựa trên xuất khẩu.
- Những cuộc tranh luận như vậy cũng xuất hiện ở Việt Nam trong thời gian gần đây.
- Cho tới nay, Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn đầu của quá trình dịch chuyển xuất khẩu theo hướng tăng cao tỷ trọng các mặt hàng chế tạo và sử dụng nhiều lao động, vì thế vẫn đòi hỏi những nỗ lực to lớn và bền bỉ trong xây dựng chiến lược thúc đẩy chất lượng và quy mô hàng xuất khẩu..
- Cuộc khủng hoảng này cũng khiến giới hoạch định chính sách của Việt Nam suy tư về sự bất ổn của thị trường và những mối hiểm nguy nó có thể mang lại.
- Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng Việt Nam vẫn là một nền kinh tế lệ thuộc nhiều vào khu vực nhà nước do di sản của quá khứ, đồng thời hệ thống thị trường vẫn còn non trẻ, đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện.
- Một vấn đề gần đây là trong khủng hoảng, khu vực kinh tế nhà nước dường như đang trỗi dậy với một sức mạnh đuợc tăng cường nhờ các biện pháp can thiệp, đồng thời là niềm tin rằng các tập đoàn mới là chỗ dựa vững chắc về tài chính và phương tiện điều hành nền kinh tế.
- Động năng quan trọng nhất của kinh tế thị trường là sự linh hoạt và sáng tạo trong khu vực tư nhân sẽ suy yếu, khiến năng lực phát triển bền vững trong dài hạn của nền kinh tế bị xói mòn..
- Trở lại với những vấn đề ngay trong năm 2010, dễ thấy rằng kinh tế Việt Nam hiện đang phải đối mặt với hai áp lực lớn về tỷ giá và thâm hụt ngân sách.
- Thứ nhất, lạm phát của Việt Nam luôn ở mức cao trong khu vực và trên thế giới.
- Thứ hai, trong năm 2010, phục hồi kinh tế thế giới vẫn chưa thực sự vững vàng dẫn đến cầu xuất khẩu và đầu tư nước ngoài chưa thể có cải thiện đột biến.
- Liên quan đến vấn đề thâm hụt ngân sách, phải thừa nhận rằng đây là một vấn đề mới chỉ được thảo luận nhiều gần đây, khi vào đầu năm 2009, nhiều người lo sợ chính sách kích cầu để chống đỡ khủng hoảng kinh tế đi liền với việc suy giảm các nguồn thu cũng do khó khăn kinh tế sẽ đẩy thâm hụt lên mức rất cao (từ 7% đến 10.
- Tuy nhiên, thực tế đây là một vấn đề đáng lo ngại trong trung và dài hạn vì bội chi ngân sách của Việt Nam đã luôn ở mức 5%.
- Trong năm 2010, do nền kinh tế vẫn còn yếu nên mức thâm hụt dự báo vẫn ở mức cao..
- Cả hai hành động này đều tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế..
- Trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam cần cải thiện môi trường kinh doanh và cạnh tranh với các nước trong khu vực để tạo môi trường kinh doanh hấp dẫn, thì khả năng tăng thuế thu nhập doanh nghiệp là không nhiều.
- Do đó, việc vay nợ nội địa quy mô lớn khiến giữ cho mặt bằng lãi suất cao, hoặc ít nhất là không duy trì được mức thấp để hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi kinh tế.
- Tuy nhiên, cần phải rất thận trọng và sáng suốt với quá trình này vì khu vực nhà nước lớn không phải để phục vụ bản thân nhà nước, mà mục đích chính là hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân phát triển một cách năng động và sáng tạo.
- Quá trình này được thể hiện trong cơ cấu sở hữu và đầu tư của các thành phần kinh tế.
- của khu vực nhà nước, không diễn ra kịp với tình hình phát triển chung của nền kinh tế và bối cảnh quốc tế, thì tự khu vực nhà nước lớn sẽ cản trở sự tăng trưởng kinh tế trong trung và dài hạn..
- Bảng 1 cho thấy một số dự báo về nền kinh tế Việt Nam trong năm 2010.
- Có hai kịch bản cho nền kinh tế.
- Nền kinh tế có thể đạt tăng trưởng ở mức 6,3%, với sự tăng trưởng của các khu vực được phản ánh chi tiết trong bảng..
- Đối với kịch bản thứ hai, mức lạm phát có thể cao hơn, khoảng 10,5% nếu Chính phủ lựa chọn không quyết liệt trong việc chống lạm phát, vì cho rằng việc thắt chặt tiền tệ có thể khiến gây ra nhiều chi phí cho nền kinh tế trong ngắn hạn như lãi suất cao và cung tín dụng thấp.
- Tăng trưởng.
- Năm 2010 là năm vấn đề lạm phát cần phải được coi trọng hơn so với năm 2009 do kinh tế đã từng bước phục hồi và các yếu tố hậu thuẫn cho mức giá thấp không còn nữa.
- Tuy nhiên, cũng không nên thắt chặt tiền tệ một cách hoàn toàn cứng rắn, mà cần sự linh hoạt để duy trì thanh khoản cho nền kinh tế.
- 2 Xem Chương 4, Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam 2010: Lựa chọn để tăng trưởng bền vững của VEPR, do NXB Tri Thức chuẩn bị xuất bản và phát hành (5/2010)..
- Nhiều lập luận chính sách cho rằng việc duy trì lãi suất huy động thấp nhằm tạo nguồn cung vốn rẻ cho nền kinh tế.
- Đồng tiền Việt Nam đã lên giá khá nhiều kể từ năm 2003 và xuất khẩu ròng đang âm, vì vậy nên tiếp tục điều chỉnh tỷ giá lên nếu cần thiết tránh tình trạng thị trường đóng băng trong khi nhập siêu tăng mạnh gây sức ép ngày càng lớn..
- Chính sách tài chính đã được nới lỏng khá mạnh năm 2009 đã góp phần chặn đà suy giảm kinh tế.
- Nền kinh tế tuy chạm đáy vào Quý I, nhưng chúng ta vẫn chưa thể khẳng định nền kinh tế đã hoàn toàn hồi phục.
- Kinh tế thế giới tuy có hồi phục nhưng vẫn chưa quay trở lại được tốc độ tăng trưởng trước khủng hoảng, nhu cầu bên ngoài vẫn yếu dẫn đến giá cả các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn đang còn ở mức thấp.
- Chính vì vậy, chính sách kích thích kinh tế vẫn cần phải tiếp tục trong năm 2010, nhưng trọng tâm và công cụ cần thay đổi, với mục tiêu hướng về các ngành xuất khẩu nhiều hơn vì những ngành này vẫn sẽ tiếp tục chịu tác động xấu trong năm 2010..
- Điều này chứng tỏ việc khuyến khích người Việt Nam.
- dùng hàng Việt Nam hiện nay đang rất cấp thiết.
- Việt Nam xuất khẩu 70% GDP nhưng cũng nhập hơn 80% GDP.
- Vấn đề chất lượng sản phẩm nhiều năm qua là điểm yếu cơ bản của hàng hóa sản xuất tại Việt Nam.
- Có thể đưa ra các chương trình gắn nhãn mác sản phẩm sản xuất tại Việt Nam..
- Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới.
- Cần phải tăng cường sự trao đổi thông tin giữa các cơ quan giám sát, khâu yếu nhất trong hệ thống giám sát tài chính đang dần hình thành ở Việt Nam..
- Ngoài ra, Việt Nam cần phải tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giám sát tài chính.
- Với một tầm nhìn trung và dài hạn, năm 2010 còn có ý nghĩa quan trọng để cân nhắc thực hiện những lựa chọn lớn trong điều hành chính sách vĩ mô và chiến lược tăng trưởng kinh tế..
- Chúng tôi cho rằng trong tương lai, chúng ta cần có những thay đổi trong điều hành kinh tế vĩ mô.
- Cần lưu ý rằng tăng trưởng kinh tế là một biến quan trọng, nhưng thực tế việc kiểm soát biến số này không phải là lợi thế tương đối thật sự của Chính phủ.
- Nhưng Chính phủ có thể tính toán và ước lượng con số này một cách khách quan, trên cơ sở đó cung cấp thông tin cho chính sách đồng thời cho các tác nhân kinh tế.
- Có lẽ đã đến lúc chúng ta cần làm quen với ý thức rõ ràng rằng tăng trưởng kinh tế là một biến phụ thuộc nhiều vào các yếu tố của nền kinh tế hơn là những nỗ lực của Chính phủ..
- Một biến quan trọng khác có tính chất tương tự tăng trưởng kinh tế là cấu trúc của cán cân thanh toán.
- Trên cơ sở cân đối các dòng vốn và luồng tiền trong cán cân thanh toán, Chính phủ lên kế hoạch điều chỉnh hay can thiệp trên thị trường ngoại hối, với một số mục tiêu nhất định cho giá trị đồng Việt Nam..
- Việc kiểm soát nhập siêu nên đặt trong tổng thể của tất cả các hoạt động chính sách nêu trên, vì nhập siêu bản chất là vấn đề cơ cấu kinh tế..
- Thêm vào đó, hiện chúng ta ngày càng thị trường hóa nền kinh tế sâu sắc hơn, cần phân biệt khu vực kinh tế của nhà nước, biểu hiện ra như khu vực quốc doanh, với các chính sách kinh tế của nhà nước.
- Vì một khi cùng chung sống trong một môi trường kinh tế và chính sách kinh tế, các doanh nghiệp, dù là quốc doanh hay ngoài quốc doanh, đều bị chi phối bởi.
- tinh thần động vật, hay tâm lý chung của kinh tế thị trường, nên không thể và không nên hy vọng các doanh nghiệp quốc doanh, dù quy mô lớn đến đâu, vừa thực hiện kinh doanh vừa thực hiện hỗ trợ chính sách kinh tế.
- Cuối cùng, trở lại lập luận cho rằng Chính phủ cần đặc biệt ưu tiên là kiểm soát lạm phát và cân đối ngân sách, chúng tôi cho rằng trong giai đoạn tới, để có thể đạt được tăng trưởng nhanh và bền vững cho tới khi tiệm cận mức các nước có thu nhập trung bình, Việt Nam cần duy trì một mức lạm phát thấp và ổn định.
- Đồng thời, sau cuộc khủng hoảng này, cần có một chiến lược kiểm soát thâm hụt ngân sách để tránh sự bành trướng nợ quốc gia, nhân tố cản trở tăng trưởng trong trung và dài hạn, là nguyên nhân cốt lõi của nhiều tổn thương kinh tế đối với một nước đang phát triển như Việt Nam..
- Tuy nhiên vì Việt Nam là một láng giềng gần gũi và có liên hệ thương mại và đầu tư ngày càng lớn với Trung Quốc, Ngân hàng Nhà nước nên phối hợp với Trung Quốc có kế hoạch triển khai việc sử dụng đồng CNY cho các giao dịch thương mại và tài chính song phương..
- Việt Nam cần phối hợp với ASEAN/IMF/ADB trong những thỏa thuận với Trung Quốc về việc sử dụng đồng CNY.
- Song song với việc triển khai sử dụng đồng CNY, Việt Nam cũng cần có các giải pháp tương tự với đồng Euro và Yen để tránh bị lệ thuộc vào một đồng tiền duy nhất, dù là USD hay CNY..
- Cuối cùng, sự phối hợp chính sách vẫn luôn là một điểm yếu trong điều hành kinh tế vĩ mô.
- Việc nâng cao tính đồng bộ đòi hỏi sự cải thiện về thể chế hoạch định chính sách và mối quan hệ giữa các thể chế này, sự tạo lập và chia sẻ nền tảng thông tin kinh tế kịp thời và chính xác..
- Lựa chọn một chính sách tỷ giá thích hợp để góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định nền kinh tế và cán cân thương mại luôn là một bài toán quan trọng của Việt Nam.
- có ý nghĩa lớn hơn khi Việt Nam đang nỗ lực phục hồi kinh tế và hướng tới một lộ trình phát triển bền vững trong thập kỷ tới..
- Việt Nam đã hội tụ đủ một số điều kiện quan trọng như giá cả của hầu hết các loại hàng hóa đã vận hành theo cơ chế thị trường, và tuy có độ mở của nền kinh tế lớn nhưng Việt Nam không phụ thuộc quá nhiều vào một đối tác thương mại nào.
- Để chính sách tỷ giá thả nổi có kiểm soát thực sự phát huy tác dụng, giúp nâng uy tín của VND, thì Việt Nam cần phải chuẩn bị thêm một số điều kiện khác như (i) xây dựng một ngân hàng trung ương hoạt động tương đối độc lập có nhiệm vụ chính là kiếm soát lạm phát theo mục tiêu và (ii) xây dựng thị trường ngoại hối hiện đại sao cho có nhiều sản phẩm phái sinh liên quan đến ngoại hối và hấp dẫn được nhiều tác nhân kinh tế tham gia..
- Cần thực hiện quản lý tỷ giá một cách gián tiếp thông qua việc kiểm soát lượng vốn gián tiếp vào thị trường Việt Nam.
- Lựa chọn cơ cấu kinh tế.
- Việc dịch chuyển cơ cấu của Việt Nam còn nhiều khâu và khu vực chưa được khai thông.
- Cụ thể, một lượng vốn lớn được phân bổ cho khu vực quốc doanh và không có điều kiện phân bổ lại cho các khu vực khác trong nền kinh tế nhằm tăng hiệu quả sử dụng vốn.
- Do đó, dự địa thay đổi cơ cấu để kích thích tăng trưởng kinh tế của Việt Nam còn rất lớn.
- Trong thời gian tới, Việt Nam có rất nhiều cơ hội để làm cho nguồn vốn được phân bổ hợp lý hơn thông qua các chính sách liên quan đến cải cách doanh nghiệp và cải thiện môi trường kinh.
- Phân tích hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam cho thấy, việc tham gia các hiệp định thương mại khu vực Đông Á của Việt Nam làm gia tăng phúc lợi chung cho toàn nền kinh tế.
- Cơ cấu xuất khẩu còn phụ thuộc vào các mặt hàng thâm dụng lao động và có giá trị gia tăng thấp – nhóm mặt hàng mà Việt Nam tiếp tục tỏ ra có lợi thế so sánh so với các nước trên thế giới và trong khu vực..
- Chỉ có một điều đáng mừng là lợi thế so sánh của Việt Nam đã và đang chuyển từ các nhóm hàng hóa thâm dụng cả tài nguyên lẫn lao động (như vào giữa thập kỷ 1990) sang nhóm hàng hóa chỉ thâm dụng lao động.
- Như vậy, vai trò của đào tạo, nâng cao chất lượng lực lượng lao động có ý nghĩa mấu chốt cho sự thành công của thương mại Việt Nam nói riêng, sự phát triển nói chung.
- Cho tới nay chúng ta đã có hàng trăm khu công nghiệp trên khắp cả nước, nhưng vấn đề nghiêm trọng nhất ở các KCN Việt Nam hiện nay là mối liên kết rất yếu giữa các doanh nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp trong nước.
- Các KCN của Việt Nam mới chỉ dừng ở mức độ cung cấp cơ sở hạ tầng tốt, và trong chừng mực nào đó, cố gắng cải tiến môi trường kinh doanh, để thu hút đầu tư nước ngoài.
- Đặc biệt, cần xem xét các khu công nghiệp như những điểm sáng du nhập, thích nghi và phát triển công nghệ quản lý, tổ chức sản xuất trong một nền kinh tế thị trường hiện đại và toàn cầu hóa, trên cơ sở đó lan tỏa ra cả nước để thúc đẩy quá trình hiện đại hóa đất nước.
- Vì vậy, đã đến lúc cần cân nhắc xây dựng những đặc khu kinh tế tự do hoặc hình thành các vùng công nghiệp (industrial cluster) để phát triển theo chiều sâu, nâng cao năng lực sản xuất trong một chuỗi giá trị nhất định, đồng thời đem lại những lan toả kinh tế-xã hội vững chắc.