« Home « Kết quả tìm kiếm

TƯ DUY LÝ THUYẾT TRONG NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN VÙNG TRƯỜNG PHÁI BA LAN


Tóm tắt Xem thử

- TƯ DUY LÝ THUYẾT TRONG NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN VÙNG TRƯỜNG PHÁI BA LAN.
- Ngành xã hội học Ba Lan đang là một trong những hệ qui chiếu về lý thuyết thuộc nhóm đi đầu trên thế giới, bên cạnh các trung tâm nghiên cứu đang tạo ra nhiều ảnh hưởng sâu rộng như Đức, Anh, Mỹ và Nhật..
- Điểm đặc biệt mà Việt Nam có thể tiếp thu từ trường phái Ba Lan là quan điểm của giới khoa học ở Ba Lan cho rằng ngành xã hội nhân văn ở mỗi quốc gia cần phải được xây dựng dựa trên những đặc thù văn hóa và ngôn ngữ riêng của dân tộc đó, bên cạnh quá trình giao thoa và hội nhập với mặt bằng phát triển chung của toàn ngành trên thế giới.
- Từ những buổi đầu, các nghiên cứu xã hội và nhân văn của Ba Lan đã đặt nền móng từ chính những giáo sư Ba Lan mà sau này trở thành chuyên gia đầu ngành ở các nước phương Tây như GS Znaniecki (chủ tịch hội xã hội học Hoa Kỳ, cha đẻ trường phái Chicago), GS Malinowski (cha đẻ ngành nhân học Anh) và GS Bauman (triết gia đương đại, cha đẻ của hệ thống lý luận về hiện đại và hậu hiện đại).
- Quá trình chuyển đổi của Ba Lan 20 năm qua cũng là môi trường được các nhà khoa học hàng đầu thế giới quan tâm đặc biệt, nghiên cứu rút tỉa bài học phát triển, lẫn xây dựng hoàn chỉnh hệ thống lý thuyết của mình.
- 5 năm trở lại đây, Viện triết và xã hội học thuộc Viện hàn lâm khoa học Ba Lan lại một lần nữa dẫn đầu các nghiên cứu trên thế giới về vấn đề địa phương ‑ vùng miền, một trong những câu hỏi lớn nhất trong thời toàn cầu hóa và hội nhập:.
- bản sắc, phát triển, và ranh giới văn hóa.
- Bài viết sẽ giới thiệu một số điểm chính và mô hình lý thuyết để nghiên cứu thực địa đã được áp dụng thành công ở Ba Lan để giới chuyên gia khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam có thể tham khảo và cân nhắc khả năng tiếp biến, ứng dụng.
- Hải chịu trách nhiêm chủ yếu về nội dung của bài viết này, vì là người diễn dịch hệ thống đó sang tiếng Việt và tái dựng lại trên hệ thống các khái niệm đương đại trong ngành xã hội nhân văn tại Việt Nam..
- Trước hết các trình bày nguyên thủy của lý thuyết này nhằm để áp dụng cho các quần thể xã hội nhỏ ‑ mang tính địa phương, lokalnosc trong tiếng Ba Lan, tức làng xã trong tiếng Việt, hoặc cũng có thể mở rộng ra thành quận, huyện, hay thậm chí tỉnh, quốc gia ‑ nhưng điểm chú trọng của nó là về các hiện tượng như xã hội, văn hóa xã hội, hệ thống chính trị, đa văn hóa, nhân sinh quan, huyền thoại xã hội.
- Lý thuyết này nhìn quần thể xã hội như một tập hợp các hệ thống xã hội tĩnh và động có quan hệ phức tạp với nhau, làm phương pháp cho các nghiên cứu điền dã và lịch sử ‑ lý thyết đối với nhiều địa phương ở Ba Lan trong thời gian chuyển đổi kinh tế, chính trị và xã hội vừa qua, nắm bắt các trật tự xã hội cơ bản và nguyên tắc chung trong diễn giải phục vụ xây dựng lý thuyết xã hội học và nhân học.
- Hướng đi này cũng tương tự với những phát triển hiện tại của ngành community studies 1 trên thế giới, chuyên nghiên cứu sự phát triển của các cộng đồng dân cư và xây dựng chính sách (Lê Hải 2008a).
- Tức là, việc khoanh vùng nghiên cứu không nhất thiết đặt nặng vào số lượng dân cư hay điều kiện địa lý của khu vực, mà vào khả năng tổng hợp và phân tích, áp dụng của phương pháp và người nghiên cứu.
- Cách nhìn thứ nhất thường sử dụng khái niệm “xã hội địa phương”.
- và đề cập tới các mối quan hệ xã hội trong đó, hoặc các hệ giá trị, biểu tượng và quyền lợi chủ quan.
- Cách nhìn này là kết quả của lối phân chia giữa xã hội thực tại (các mối quan hệ xã hội) và những gì thuộc về thế giới của những biểu tượng văn hóa được hiện vật hóa (ví dụ như văn hóa tín ngưỡng).
- Khi đó xã hội địa phương được coi như một thể có thực, được tạo ra trong quá trình trao đổi giữa các thành viên và nhóm để tạo ra quần thể xã hội hoặc văn hóa.
- Độc giả có thể truy cập nhanh về ngành nghiên cứu mới phát triển từ cuối thế kỷ 20 qua giải thích nhanh trên Wikipedia tiếng Việt (vi.wikipedia.org) về Chủ nghĩa cộng đồng do chính tác giả bài viết này biên soạn, có đầy đủ các đường dẫn đến những bài viết cần tham khảo trên mạng, hoặc tìm đọc bài viết đầy đủ của tác giả trên trang nhà bansacdantocvietnam.blogspot.com.
- tâm đến mối quan hệ vật chất hay địa lý, mà chỉ nói chung về “địa phương” và đề cập đến khu vực biểu tượng văn hóa thông qua cấu trúc và sự vận động của nó, đặc biệt là những tưởng tượng 1 từ cơ bản, thành phần đến phức tạp (ví dụ như văn hóa tâm linh).
- Khi đó tùy thuộc theo lối phân chia theo trường phái nhìn xã hội qua tập thể hay cá nhân mà địa phương qua tưởng tượng này được coi là kết quả của một tập hợp xã hội ‑ cộng đồng hay hiệp hội ‑ hay là thuộc tính tư duy và tình cảm của trải nghiệm cá nhân trong một thực tại xã hội phức tạp.
- Hai cách nhìn vừa kể có thể được phối hợp trong nghiên cứu khảo sát đặt nặng lối phân chia trong phương pháp và lý thuyết, tức là lối tiếp cận diễn giải, hay nói khác hơn là hệ tọa độ để khảo sát khu vực đó, kết hợp cả.
- “xã hội địa phương” lẫn “địa phương”, mà một số hệ thống đối chiếu sẽ được trình bày tiếp theo đây..
- Mục tiêu của bài viết này nhằm đưa ra một cách nhìn toàn diện và hệ thống về các phương pháp có thể dùng trong nghiên cứu vùng, cho nên việc chọn lựa sẽ sử dụng những thành phần nào sẽ tùy thuộc hoàn toàn vào mục tiêu của nghiên cứu cụ thể hoặc điều kiện thực tế có được..
- Về cơ bản khi phân tích “xã hội địa phương” như cách nhìn thứ nhất vừa kể trên, người ta thường phân chia các nhóm hoặc cơ chế trong mối quan hệ với môi trường vật chất xung quanh thành những cặp đối lập..
- Đây cũng là cách nhìn cổ điển của ngành xã hội học cuối thế kỷ 19, đặt quần thể người trong mối quan hệ xã hội ‑ văn hóa ứng xử như cách gọi của Trần Ngọc Thêm (2001.
- với môi trường sống tự nhiên và văn hóa xung quanh.
- Sự quay lại của trường phái này trong nửa sau của thế kỷ 20 đi cùng với những khái niệm được sửa đổi hoặc đặt mới cho phù hợp như “vốn xã hội.
- thước đo mật độ các mối quan hệ xã hội trong cộng đồng (Fukuyama 1999, Putnam 2004).
- Nếu nhìn đối tượng nghiên cứu như một dự án xây dựng và phát triển địa phương thì có thể phân tích cấu trúc và hoạt động của mối quan hệ xã hội đó qua bốn cặp phạm trù cơ bản..
- Đầu tiên, quần thể xã hội địa phương có thể được tập hợp qua mô hình cộng đồng hay hiệp hội 1 .
- Cộng đồng dân cư thường gắn liền với nơi cư ngụ, có nhiều mối quan hệ hữu cơ, đa dạng, chồng chéo và trực tiếp giữa các thành viên với nhau, tích cực kết dính trong không gian xã hội qui mô nhỏ và không cần đến nhiều cơ chế và nhóm họp, mang tính gần như là gia đình.
- Trong khi đó dạng thức hiệp hội hay câu lạc bộ thường thiên về các mối quan hệ gián tiếp, ít gặp mặt trực tiếp, chọn lựa theo lợi ích, duy trì trong không gian xã hội mở rộng, vượt ra ngoài quan hệ hàng xóm hay nhóm nguyên thủy, ngày càng mở rộng và gia tăng sự khác biệt trong các mối quan hệ xã hội..
- Thứ hai, xã hội địa phương đó có thể được tập hợp dựa trên các mối quan hệ xã hội tích cực ví dụ như cùng một mục tiêu thịnh vượng chung hoặc cũng có thể là các mối quan hệ xã hội tiêu cực (mâu thuẫn, tranh chấp) mà họ cùng có đối với bên ngoài, hoặc một điểm định hướng chung, hoặc đối với ngay chính nhau..
- Thứ ba, quần thể xã hội địa phương có thể được xét trong mối quan hệ đóng hoặc mở, biệt lập hay thu nhận.
- tức là các nhóm, cơ chế, văn hóa công cộng, cấu trúc quốc gia hoặc trên quốc gia ‑ cho phép tồn tại nhiều mối quan hệ khác nhau cả bên trong lẫn bên ngoài, dễ dãi với môi trường văn hóa xung quanh..
- Thứ tư là cặp phạm trù không gian và thời gian, mà người nghiên cứu trên cơ sở dữ liệu có được từ khảo sát điền dã sẽ cân nhắc xem cái nào là trục qui chiếu tối ưu nhất: truyền thống, không gian vật chất hay không gian xã hội.
- lịch sử hay khoảng cách vật chất và xã hội 2 .
- Không gian ở đây có thể là không gian địa lý hay không gian trong tư duy..
- Mô hình xã hội học thế kỷ 19 thường phân biệt bằng hai khái niệm tiếng Đức Gesellschaft và Gemeinschaft, tức là nguyên tắc gắn liền với vùng đất địa lý và mối quan hệ xã hội..
- Người nghiên cứu cũng có khi sẽ muốn chọn khảo sát thời gian theo trục không gian, hoặc xét không gian theo trục thời gian..
- Tư tưởng địa phương.
- Bốn cặp phạm trù vừa giới thiệu thường xuất hiện trong các nghiên cứu về mối quan hệ xã hội thực tế khi khảo sát quần thể xã hội gắn liền với một địa phương cụ thể.
- Một số công trình nghiên cứu còn đề nghị thêm các phạm trù và hệ thống khái niệm khác nữa để khảo sát, hoặc cũng dùng hệ thống này để khảo sát nhân sinh quan về địa phương như trong cách nhìn về tư duy trừu tượng đã trình bày ở trên (xã hội tâm linh).
- Quan niệm về địa phương mà các thành viên của xã hội địa phương đó cùng giới chính trị và doanh nhân đều nghĩ giống nhau sẽ được tạm gọi là hệ tư tưởng địa phương.
- Khi đó tư duy này sẽ được đặt trong nhiều mối quan hệ khác nhau, kể cả sử dụng mối quan hệ đối lập lẫn các hệ thống không đối lập để khảo sát..
- Cũng cần giải thích thêm là “tư tưởng địa phương” là tên gọi được tạm đặt cho khái niệm mới trong học thuật mà thuật ngữ tiếng Anh là localism, mô tả nhân sinh quan trong không gian tư duy để phân biệt với khái niệm quen gọi là chủ nghĩa địa phương hay chủ nghĩa cục bộ ‑ regionalism, vốn theo cách hiểu cổ điển chỉ đề cập đến những mối quan hệ xã hội thực tế, liên quan đến địa phương và môi trường thực tế.
- Tư tưởng địa phương phát triển ở Mỹ và Tây Âu có thêm liên kết với hệ tư tưởng bảo thủ xã hội ‑ social conservatism..
- Nếu phương pháp hệ thống hóa qua các cặp phạm trù hoặc nhìn vào tư tưởng địa phương trong tư duy của cộng đồng và xã hội đều đặt cơ sở trên cách nhìn thế giới qua các mặt đối lập, thì các nghiên cứu ở Ba Lan xây dựng khái niệm “tiểu quốc” (mala ojczyzna trong tiếng Ba Lan) như góc nhìn nghiên cứu tìm mẫu số chung cho mọi loại hình hiện tượng phức tạp thu nhận được từ đối tượng nghiên cứu.
- Bất kể được định nghĩa như thế nào, thì khái niệm tư duy này đều giúp không chỉ nhà nghiên cứu “nhìn thấy” kết cấu của xã hội và tư duy, vì “tiểu quốc”.
- vừa đáp ứng các đòi hỏi về cấu trúc lẫn chức năng trong xã hội học hay khoa học tư tưởng, vừa phù hợp cho các biện chứng ở địa phương lẫn tầm quốc gia, dễ dàng thể hiện trong các hệ thống tư tưởng khác nhau..
- Khái niệm tiểu quốc có khả năng làm cầu nối cho rất nhiều ngành học khác nhau: xã hội học, nhân học, sử học, nhân chủng học, triết học, văn hóa và ngữ văn, thông qua hệ thống khái niệm và diễn giải.
- Tiểu quốc cũng là tư duy được vật thể hóa và đề cập đến toàn thể văn hóa dân tộc trong mối quan hệ liên chủ quan.
- Lăng kính này cho phép người nghiên cứu hiểu được qui luật phát triển của từng cá nhân trong khu vực, cả nhóm đa số lẫn thiểu số, tư tưởng chủ đạo lẫn đối lập hoặc thay thế, cả chính sách thượng tầng trung ương lẫn hạ tầng tư duy 1 cấp cơ sở, văn hóa chỉ đạo và bản địa lẫn văn hóa, nhìn thông suốt từ cá nhân lên đến cộng đồng dân tộc ‑ quốc gia, từ góc nhìn của người làm chính sách hay vận động chính trị đến quần chúng tham gia và tác động dân sự.
- Thực ra đây cũng là một tiếp cận thực tế cho những chính sách phát triển văn hóa toàn cầu mà Unesco từng chủ xướng, và Việt Nam cũng từng thử nghiệm qua mô hình làng văn hóa (Nguyễn Khoa Điềm 2001).
- Mỗi quốc gia tùy theo điều kiện văn hóa chính trị và dân trí mà sẽ xây dựng và hoàn thiện chủ thuyết phát triển riêng.
- Giới khoa học Ba Lan cũng dành hàng chục năm thử nghiệm nhiều mô hình khác nhau, mà một trong số các chủ thuyết nổi bật hiện nay là hệ thống đào tạo hàng trăm “họa nhân văn hóa” (animator kultury) nhằm thông hiểu và kiến tạo văn hóa cơ sở, lấp dần các ranh giới vùng.
- Một trong số những diễn giải về hạ tầng tư duy được Giáp Văn Dương (2009a,b) xây dựng, có thể tìm hiểu trên blog của anh ở địa chỉ http://www.giapvan.net.
- Cấu trúc của hạ tầng tư duy gồm sáu yếu tố chính:.
- Thói quen, kĩ năng tư duy cá nhân (TQ‑KN);Văn hóa, môi trường làm việc (VH‑MT).
- miền, khu vực nhưng không đánh đồng và tập trung xã hội (Godlewski 2002).
- Bản đồ tư duy.
- Cũng cần nói thêm là cơ sở phương pháp nghiên cứu cho hệ thống cách nhìn vừa giới thiệu cũng là trào lưu mới, cần được áp dụng đầy đủ.
- Trước hết đó là phương pháp luận cá nhân ‑ methodological individualism 1 , đồng thời tôn trọng tính đa dạng của chủ thể ‑ pluralism, khi nhiều không gian tự trị cùng tồn tại và tạo ra vật phẩm văn hóa chung (Walzer 1983).
- Tiếp nữa là nhà nghiên cứu có thể tham gia những hoạt động trong xã hội nhưng cần ghi nhận và cân nhắc những ảnh hưởng do chính mình gây ra, làm thay đổi xã hội đang khảo sát.
- Quan trọng nhất, như đã nhắc từ đầu bài, nhà nghiên cứu cần từ bỏ lối tư duy lỗi thời theo kiểu áp dụng đại trà một mô hình đồng nhất cho tất cả mọi vùng miền, khu vực.
- “Địa phương” cần được coi như một dự án phát triển, mà qua những hệ qui chiếu như phạm trù đối lập hoặc khái niệm chung như bản sắc địa phương (tiểu quốc), người nghiên cứu có thể thông hiểu, nắm bắt kiến thức cơ sở để vẽ bản đồ địa hình cho không gian tư duy và xã hội thực tại, cũng giống như phương pháp và công việc của người khảo sát địa chất hay thổ nhưỡng trong không gian địa lý.
- Bản đồ có thể phác thảo hay chi tiết, phổ thông hay chức năng, cũng như địa hình cũng thường xuyên thay đổi, nhất là trong tư duy hay quan hệ xã hội..
- Phương pháp luận này được xây dựng trên cơ sở một nhánh triết học muốn giải thích và hiểu các phát triển xã hội như là một tập hợp của các quyết định và hành động của các cá nhân, còn có thể được hiểu như là phương pháp giản lược ‑ reductionism, hiện được áp dụng nhiều cả trong ngành xã hội lẫn kinh tế học.
- GS Kurczewska cũng có bàn đến nhân sinh quan cá nhân trong nghiên cứu dân tộc: (1999) [Khái niệm dân tộc] Naród, trong [Bách khoa toàn thư xã hội học] Encyklopedia Socjologii, Ofycyna Naukowa, Warszawa, bản lược dịch của tác giả bài viết được lưu trên mạng ở địa chỉ:.
- Nghiên cứu địa phương, đặc biệt là làng xã, vốn phổ biến trở lại ở Việt Nam trong vòng 20 năm qua, với nhiều đóng góp từ các nghiên cứu từ nước ngoài, như khảo sát nhiều ngành của Nhật Bản ở Bách Cốc (Nguyễn Quang Ngọc&Trương Quang Hải 2008).
- Tuy nhiên, đúng như GS Phan Huy Lê (2006) đã nhận xét, các nghiên cứu đó tiếp nối truyền thống khảo cứu và góc nhìn cổ điển từ thời Pháp thuộc, tức là tập trung phân tích các mối quan hệ xã hội thực tại như đã được trình bày trong phần đầu của bài viết này..
- Không gian tâm linh cũng là đề tài rất được quan tâm hiện nay trong các nghiên cứu từ Úc và trường phái nhân‑sử học Hoa Kỳ đối với Việt Nam mà hiện dẫn đầu là GS Philip Taylor (2007), nhưng đa số các khảo sát vẫn tập trung vào phần vật thể hóa của các biểu tượng văn hóa.
- Tuy vậy, vẫn có một số rất ít khảo sát từ phương Tây chú ý đến tư duy thuần túy trong không gian tâm linh như nghiên cứu của GS Shaun Malarney (2002) ở Thịnh Liệt 1 , hay khảo sát của GS Kwon Hoenik (2008) ở vùng Quảng Nam, Đà Nẵng và Quảng Ngãi 2 .
- Lãnh vực này hoàn toàn thiếu vắng trong các nghiên cứu tại Việt Nam, vốn yếu về hệ thống lý thuyết và lịch sử tư duy 3.
- Áp dụng các trình bày đã được giới thiệu trong bài viết này, kèm theo hệ thống chỉ dẫn đến các tài liệu chuyên sâu và nâng cao, hi vọng người làm khoa học tại Việt Nam nay có thể phác thảo một hệ thống lý thuyết cơ sở để khảo sát không gian tư duy (tâm linh, biểu tượng văn hóa) tại khu vực đang là đối tượng nghiên cứu của mình.
- Như đã nhắc từ đầu, hệ thống lý thuyết này không phải là mô hình mà nhà nghiên cứu buộc phải áp dụng, mà chỉ là một hệ thống tư duy giúp nhà nghiên cứu tự xác định bản thân trên sơ đồ khoa học đương đại và phát triển phương pháp nghiên cứu phù hợp 4 .
- Mỗi quốc gia hoặc mỗi trung tâm nghiên cứu thường có một hướng đi riêng phù hợp cho mình, ví dụ nếu ở Ba Lan có góc nhìn "tiểu quốc".
- ‑ mala ojczyzna và trường phái "họa nhân văn hóa".
- ‑ animator kultury như đã trình bày ở phần trên, thì các nghiên cứu văn hóa Hi Lạp của GS Michael Herzfeld (2005 Cultural Intimacy: Social Poetics in the Nation‑State, Tylor&Francis Group) dùng lăng kính có thể coi như tương tự là "không gian văn hóa riêng".
- và "thơ ca xã hội".
- mỗi bản thân từ cơ sở văn hóa và giới tính riêng thường có cách “vẽ bản đồ” khác nhau, mối quan tâm tìm hiểu khác nhau đối với cùng một khu vực đang là đối tượng.
- Cán bộ phong trào có thể áp dụng phương pháp quan sát tham gia của nhân học đời thường mà tìm hiểu tiến trình lịch sử của tư duy làng xã ‑ vùng miền xuyên suốt theo các giai đoạn “xâm nhập” của văn hóa bên ngoài, từ hệ tư tưởng được trung ương phổ biến lẫn những triết học đời thường được thu nhận từ phim bộ các nước 2 .
- Chuyên gia văn hóa và nhân học có thể phát triển hệ tọa độ văn hóa (Trần Ngọc Thêm 2001) để nâng cao khảo sát văn hóa ứng xử trong môi trường văn hóa.
- Thừa hưởng tư duy Mác‑xít từ hệ thống giáo dục phổ thông, người nghiên cứu từ nhiều ngành khác nhau ở Việt Nam dễ dàng xây dựng hệ qui chiếu đối lập qua các cặp phạm trù mâu thuẫn, là tư duy đang thuộc loại phổ biến trong ngành xã hội ‑ nhân văn trên thế giới (Lê Thanh Hải 2008b).
- Lối tiếp cận theo kiểu vẽ bản đồ cũng giúp bổ sung cho những giới hạn của phương pháp khu vực học đang được triển khai tại một số trung tâm nghiên cứu phát triển Việt Nam (Lê Thanh Hải 2009a)..
- “Tiểu quốc” cũng không phải là khái niệm xa lạ tại Việt Nam, chỉ có điều chưa ai hệ thống hóa khái niệm tương tự là “quê hương” của người Việt Nam cho ngành khoa học xã hội‑nhân văn mà thôi.
- TS Phan Phương Anh từng có nghiên cứu về Chữ thiêng ‑ Văn tự trong thờ cúng tổ tiên của người Việt đương đại, trong tập sách do Lê Hồng Lý chủ biên 2008, Sự biến đổi của tôn giáo tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay, NXB Thế Giới trang 175‑.
- Ví dụ như các nghiên cứu về Minh triết và Phát Triển (Lê Thanh Hải 2009b).
- Phương pháp hiện tượng luận cũng không phải là vấn đề xa lạ trong tư duy mặc dù còn thiếu các phát triển dành riêng cho các ngành xã hội ‑ nhân văn.
- Trong mối quan hệ bộ ba giữa hiện tượng (phenomenon), bản chất (ontology) và phương pháp (methodology) thì mỗi người nghiên cứu xã hội cần phải xây dựng hệ thống phương pháp cho riêng mình để tiếp cận bản chất sự việc thông qua hiện tượng, mà hai vấn đề cơ bản nhất 2 cần nắm chính là “hiểu” và/trong cơ cấu của “liên chủ quan” (Schutz 1970).
- Phương pháp diễn giải biểu tượng văn hóa kết hợp với cách hiểu trong hệ thống triết học hiện tượng luận vốn được đánh giá là một trong số những bổ sung phù hợp nhất đối với trường phái xã hội học phát xuất từ nền tảng triết học Mác‑xít (Churton 2000, chương 2)..
- Cho nên tôi rất tâm đắc là các bạn hãy nghiên cứu và góp ý kiến với chúng tôi.
- [1] Kurczewska, Joanna (2006), Tư tưởng nghiên cứu địa phương, Các sơ đồ cũ và mới Robocze Ideologie Lokalnosci, Stare i Nowe Schematy, trong tập sách do Joanna Kurczewska chủ biên 2006, Oblicza Lokalnosci, Tradycja i wspolczesnosc, IFiS PAN, trang 88‑129..
- [4] Lê Thanh Hải (2009a), Việt Nam 2008: Chuyển dịch trong não trạng xã hội ‑ nhân văn, Hội thảo Hè Paris 26‑28.8.2009, http://bansacdantocvietnam.blogspot.com /2009/ 09/vietnam‑2008.html..
- [7] Phan Huy Lê (2006), Nghiên cứu Làng Việt Nam ‑ đánh giá cả các góc nhìn Research on the Vietnamese Village ‑ Assessment and Perspectives, Trần Tuyết Nhung &.
- [11] Trần Ngoc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP.
- [12] Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên) (2001), Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb Chính trị Quốc gia..
- [13] Fukuyama, Francis (1999), Vốn xã hội và Xã hội dân sự Social Capital and Civil Society, IMF Conference on Second Generation Reforms, bản điện tử ở địa chỉ http://www.imf.org/external/pubs/ft/seminar/1999/reforms/fukuyama.htm [14] Putnam, Robert D.
- [18] Godlewski, Grzegorz (chủ biên) (2002), Khắc họa văn hóa ‑ Kinh nghiệm và Tương lai, Animacja Kultury ‑ Doswiadczanie i Przyszlosc, IKP UW..
- [22] Trần Văn Đoàn, Thông Diễn học (Hermeneutic) và Khoa học xã hội nhân văn, NXB ĐHQG Hà Nội