« Home « Kết quả tìm kiếm

BẢN SẮC VĂN HÓA VÀ TRI THỨC ĐỊA PHƯƠNG TRONG PHÁT TRIỂN VÙNG ĐÔNG NAM BỘ


Tóm tắt Xem thử

- BẢN SẮC VĂN HÓA VÀ TRI THỨC ĐỊA PHƯƠNG TRONG PHÁT TRIỂN VÙNG ĐÔNG NAM BỘ.
- Từ bản sắc văn hóa.
- Bản sắc văn hóa là giá trị cơ bản của văn hóa.
- Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam tức là nói những giá trị gốc, căn bản, cốt lõi, những giá trị hạt nhân của dân tộc Việt Nam.
- Giá trị văn hóa là những giá trị tiêu biểu nhất, bản chất nhất, chúng mang tính dân tộc sâu sắc đến nỗi chúng biểu hiện trong mọi lĩnh vực của nền văn hóa Việt Nam, trong các lĩnh vực văn học nghệ thuật, sân khấu, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, trong sinh hoạt, giao tiếp, ứng xử hàng ngày của người Việt Nam..
- Những giá trị văn hóa đó không phải tự nhiên mà có, mà được tạo thành dần dần và được khẳng định trong quá trình lịch sử xây dựng, củng cố và phát triển của nhà nước dân tộc Việt Nam.
- Những giá trị đó được bảo tồn, bổ sung và tiếp biến những giá trị mới cho phù hợp.
- Dân tộc Việt Nam, với tư cách là chủ thể sáng tạo, thường xuyên kiểm nghiệm những giá tri hạt nhân đó, quyết định những thay đổi và bổ sung cần thiết, tái tạo những giá trị đó từ thế hệ này sang thế hệ khác..
- Miền Đông Nam Bộ nằm trên lưu vực sông Đồng Nai, gồm các tỉnh, thành: Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh và Bà Rịa ‑ Vũng Tàu.
- Miền Đông Nam Bộ là vùng cư trú của nhiều thành phần dân tộc có nguồn gốc địa phương khác nhau tụ họp về đây.
- Đây là vùng đất có nhiều tôn giáo và các hình thức tín ngưỡng tồn tại trong nhân dân, là vùng hội tụ dân cư do những cuộc di dân lớn diễn ra hàng thế kỷ tạo nên, vốn có nhiều hệ thống phong tục tập quán khác nhau kết tinh thành truyền thống văn hóa chung có đặc tính riêng trong văn hóa Việt Nam..
- Trải qua quá trình lịch sử, nhiều lớp dân cư từ đồng bằng Bắc Bộ, từ các tỉnh duyên hải miền Trung đến đây lập làng xóm, khai thác đất đai, phát triển nông nghiệp, xây dựng nên những cánh đồng lúa.
- Từ những làng xóm của vùng đồng lúa đi đến sinh sống ở những vùng đô thị, trước hết là vùng đô thị Sài Gòn – Chợ Lớn, miền đồi núi, Đông Nam Bộ….
- Cư dân người Việt (Kinh) và văn hóa người Việt đã thực sự trở thành nền tảng căn bản từ đầu thế kỷ XVIII cho đến ngày nay.
- Sự giao tiếp giữa các tộc người và sự tiếp cận giữa những hệ thống văn hóa khác nhau đã tạo nên những đặc điểm văn hóa có tính đặc thù cho các dân tộc vùng miền Đông Nam Bộ..
- Cư dân ở vùng miền Đông Nam Bộ ngoài người Việt chiếm đa số, còn có các dân tộc bản địa và nhập cư như: Chơro, Mạ, Stiêng, Cơho, Hoa, Chăm, Khơme, Tày, Nùng, Mường… Bản sắc văn hóa của các dân tộc vùng miền Đông Nam Bộ bao hàm những những giá trị tiêu biểu nhất, bản chất nhất, chúng mang tính dân tộc sâu sắc biểu hiện trên các lĩnh vực đời sống vật chất và tinh thần thông qua sinh hoạt sản xuất, giao tiếp, ứng xử hằng ngày của con người ở vùng miền Đông Nam Bộ..
- Cách thức tổ chức xã hội cổ truyền.
- Không giống như người Việt ở Bắc Bộ, làng xóm của người Việt Nam Bộ không nằm trong những lũy tre xanh bao bọc mà được hình thành dọc theo những con kênh, rạch, triền sông và vùng đồng bằng thấp bằng phẳng.
- Tổ chức làng xã ở Đông Nam Bộ cũng như Nam Bộ không chặt chẽ như làng ở miền Trung và miền Bắc..
- Các dân tộc bản địa nơi đây cư trú theo các bòn, sóc.
- Phong tục của người Việt ở vùng Đông Nam Bộ cũng có nguồn gốc từ đồng bằng Trung và Nam Trung Bộ, nhưng có tiếp biến thêm nhiều yếu tố từ phong tục của người Khơme, người Chăm, người Hoa… Chẳng hạn, hầu hết người Việt Nam Bộ vẫn giữ tập quán giẫy mả vào ngày 25 tháng Chạp trước khi làm lễ đón ông bà vào ngày 30 tháng Chạp âm lịch, nhưng một bộ phận người Việt Nam Bộ cũng theo tập quán tảo mộ vào tiết Thanh minh tháng Ba âm lịch giống như người Hoa..
- Tính cách của người Việt Nam Bộ cũng có nhiều nét khác biệt với người Việt ở đồng bằng Trung và Nam Trung Bộ: cởi mở, không ưa sự ràng buộc, chuộng sự bình đẳng.
- Người Chăm ở Đông Nam Bộ hầu hết theo đạo Hồi (Islam) nên có những món ăn riêng, gọi là các món halal.
- Tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội.
- Miền Đông Nam Bộ có nhiều sinh hoạt văn hóa dân gian.
- Các dân tộc bản địa như: Chơro, Mạ, Stiêng, Cơho theo tín ngưỡng vạn vật hữu linh, tôn sùng tự nhiên.
- Hàng năm đồng bào có những lễ hội gắn với nông nghiệp, với núi rừng như: lễ mừng lúa mới, lễ cúng Yang (SaYangva), cúng thần rừng, thần sông suối, thần nhà, thần cửa, lễ đâm trâu….
- Đạo Phật kết hợp với đạo Lão, đạo Khổng, đạo Kitô, đạo Mẫu là cơ sở hình thành đạo Cao Đài trên vùng đất Đông Nam Bộ.
- Miền Đông Nam Bộ cũng là nơi có đông đồng bào theo đạo Công giáo (tập trung đông nhất ở tỉnh Đồng Nai)..
- Lễ hội tín ngưỡng ‑ tôn giáo bao gồm các lễ hội thường niên của đạo Phật, đạo Cao Đài, đạo Hòa Hảo, đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành, hội đền Linh Sơn Thánh mẫu ở núi Bà Đen.
- Ở vùng ven biển, lễ hội Nghinh Ông là sự kiện quan trọng bậc nhất trong đời sống văn hóa và tâm linh của cư dân.
- Ở Bà Rịa‑Vũng Tàu, nơi có 10 đền thờ cá voi, nhiều nhất ở miền Nam, bên cạnh lễ hội Nghinh Ông còn có lễ Lệ Cô Long Hải từ 10/2 đến 12/2 âm lịch để thờ cúng Mẫu ‑ Nữ thần và kết hợp cúng thần biển.
- Ở Cần Giờ (thành phố Hồ Chí Minh) và Bà Rịa ‑ Vũng Tàu đều có lễ hội Nghinh Ông trọng thể hằng năm.
- Lễ hội văn hóa ‑ lịch sử bao gồm các lễ tết cổ truyền như tết Nguyên Đán, tết Đoan ngọ.
- Các lễ hội tưởng niệm các danh nhân có công mở đất như Nguyễn Hữu Kính, Lê Văn Duyệt, Trần Thượng Xuyên….
- Các lễ hội truyền thống của người Khơme bao gồm hai loại chính: các lễ hội Phật giáo (lễ Phật Đản (bon Pisakh Bâuchea), lễ nhập hạ (bon Châul Vâssa), lễ cầu phước (bon Đa), lễ hội linh (bon Pchum Bôn), lễ tang (bon Sôp.
- và các lễ hội văn hóa ‑ lịch sử (lễ Tết‑ pithi Chôl Chnam Thmây, lễ cúng tổ tiên ‑pithi Sen Đônta, lễ cúng trăng ‑pithi Sâm Peak Preach Khe hay còn gọi là lễ đút cốm dẹp ‑ Âk Âmbok với các nghi lễ cảm tạ thần Mặt Trăng bảo hộ mùa màng, điều hòa thời tiết, đem lại ấm no, tổ chức đua ghe ngo ‑ Um tuk ngua.
- Hệ thống thần thánh của người Hoa rất phong phú và phức tạp..
- Người Chăm ở Đông Nam Bộ theo đạo Hồi (Islam), tôn thờ Thượng đế Allah và lấy Kinh Qur’an làm kim chỉ nam cho hoạt động tín ngưỡng của mình.
- Các lễ hội truyền thống của người Chăm ở Đông Nam Bộ chủ yếu là lễ hội tín ngưỡng ‑ tôn giáo: lễ Tolakbala vào ngày thứ Tư tuần cuối tháng Safar (tháng 2 Hồi lịch) để cầu xin Thượng đế ban sự bình an, lễ kỷ niệm ngày sinh của Đấng Muhammad vào ngày 12 tháng Rabiul Awal (tháng 3 Hồi lịch), lễ Raya Iadil Fitrah vào ngày cuối cùng của tháng chay nhịn Ramadan (tháng 9 Hồi lịch).
- Những đặc điểm văn hóa về cư trú, tổ chức làng xã, sinh hoạt sản xuất, hay phong tục tập quán, tín ngưỡng, lễ hội dân gian… đã tạo nên những giá trị văn hóa được lưu truyền qua nhiều thế hệ trở thành bản sắc văn hóa cho cộng đồng cư dân ở vùng Đông Nam Bộ..
- Đến tri thức địa phương.
- Bên cạnh những giá trị tiêu biểu hay còn gọi là bản sắc văn hóa thì còn có hệ thống tri thức địa phương là những kiến thức, kinh nghiệm được người dân địa phương trải nghiệm và học tập qua quá trình lao động thực tế.
- Đó là sản phẩm văn hóa có giá trị thực tiễn vô cùng to lớn của người địa phương..
- Tri thức địa phương là sản phẩm văn hóa có giá trị tinh thần vô cùng to lớn cho thế hệ mai sau.
- Tuy nhiên hiện nay, những giá trị ấy ngày càng bị mai một và có nguy cơ mất đi khi nền kinh tế thị trường phát triển.
- Tri thức về thiên nhiên và môi trường.
- Văn hóa của các dân tộc bản địa Chơro, Mạ, Stiêng, Cơho nổi lên với các đặc trưng của các dân tộc có nguồn gốc nông nghiệp, sống gắn bó rừng, còn lệ thuộc vào thiên nhiên, đời sống còn chưa cao.
- Tri thức về quản lý xã hội và cộng đồng.
- ‑ Người Việt ở các làng cổ Đồng Nai còn có tục lệ hết sức tiêu biểu mang tính văn hóa cộng đồng, đó là “lễ lạy làng” trong đám cưới.
- ‑ Tăm‑pớt là một loại hình văn hóa đặc sắc của đồng bào dân tộc Mạ, phản ảnh rất nhiều lĩnh vực trong lịch sử cộng đồng tộc người như: Luật tục, tập quán, truyền thống, cội nguồn dân tộc quan hệ dòng tộc, tình yêu nam nữ… được thể hiện dưới dạng hát kể trong các dịp lễ hội, cưới hỏi, làng có việc vui… bằng hình thức truyền khẩu..
- Tri thức trong sinh hoạt sản xuất.
- Cách làm này có cơ sở khoa học: rẫy mới tuy trỉa sau nhưng vì màu mỡ hơn nên cây trồng vẫn phát triển kịp với cây trỉa trước.
- Ngày nay, nhiều bà con người Chơro, Mạ, Stiêng biết trồng lúa nước và thành thạo kỹ thuật (chăm sóc lúa và bón phân) như người Việt..
- ‑ Các dân tộc bản địa miền Đông Nam Bộ thường tổ chức lễ cúng Thần Lúa (Yang Va) vào khoảng tháng ba âm lịch sau khi mùa vụ cũ thu hoạch đã xong và chuẩn bị cho một mùa vụ mới.
- Đây là nét sinh hoạt văn hóa nông nghiệp đặc thù của nông thôn làng Việt ở Nhơn Trạch (Đồng Nai) so với những nơi khác.
- ‑ Dân tộc bản địa Stiêng hiện nay vẫn còn một số hộ giữ được phong tục cầu mưa, thường thực hiện vào dịp thu hoạch mùa màng xong và chuẩn bị cho mùa vụ gieo trỉa sắp tới..
- Người ta tiến hành lễ Then trên một thửa ruộng khô bên bờ suối với các nghi nghi lễ theo chu kỳ canh tác như: lễ xuống đồng, lễ gieo mạ, lễ lúa lên đòng, lễ lúa chín, lễ mừng sân lúa, lễ hội mùa (mừng lúa tốt) và lễ dâng gạo mới (còn gọi là lễ Tiến cốm)..
- Tri thức về phong tục, tập quán.
- ‑ Nhà ở của các dân tộc bản địa là nhà sàn, sàn cao chừng 1,5m, dựng theo hướng đông‑tây tránh mặt trời đi qua đòn dông nhà, hai cửa hông có hai cầu thang bằng gỗ hoặc tre.
- Nhà ở tiêu biểu của các dân tộc bản địa Đông Nam Bộ là nhà sàn rất thích hợp với hoàn cảnh của vùng rừng núi, tránh được thú dữ có thể làm hại đến con người.
- ‑ Người Việt còn có tục lệ đón mừng năm mới vào ngày mùng 1 tháng giêng âm lịch (tết Nguyên Đán).
- Tết của người Việt có những lễ nghi và.
- Vào ngày Tết trên bàn thờ người Việt ở Đông Nam Bộ thường phải có mâm ngũ quả gồm năm loại trái cây như: mãng cầu, sung, dừa, đu đủ và xoài.
- ‑ Trong việc cúng lễ tổ tiên, người Việt còn có tục qui định vật cúng nhất định cho từng dòng họ (còn gọi là cúng việc lề).
- Lễ cúng của người Việt ở Bến Gỗ‑ Long Thành thường có món thịt kho tàu và khổ qua nhồi thịt, có lẽ ảnh hưởng từ văn hóa ẩm thực của người Hoa.
- Đây cũng là biểu hiện của “cúng việc lề” ở vùng Đông Nam Bộ..
- ‑ Ngay từ buổi đầu khai phá đất Đồng Nai, người Việt đã định cư nơi những vùng kênh rạch ven sông hoặc cù lao như: Bàn Lân, Cù lao Phố, Bến Gỗ, Bến Cá, Cù lao Rùa, Tân Triều, Cù lao Tân Chánh, rạch Lá Buông (sau này mới đến Sài Gòn thuộc huyện Tân Bình.
- Có lẽ xuất phát từ ý nghĩa quan trọng đó mà từ lâu người Việt ở vùng Đông Nam Bộ đã tổ chức những dịp lễ hội đua ghe, đua thuyền trên sông – một nét văn hoá sông nước được duy trì cho đến hiện nay..
- Tri thức về tín ngưỡng dân gian.
- ‑ Các vị thần được các dân tộc bản địa thờ như: Yang Va (thần lúa), Yang Bri (thần rừng), Yang Dal (thần suối), Yang Re (thần rẫy), Yang Mơ (thần ruộng), Yang Nhi (thần nhà hay thổ công)… Một trong những lễ cúng quan trọng của các dân tộc bản địa là lễ cúng Thần Lúa (sa Yang Va) hay mừng Lúa mới đến nay vẫn còn bảo tồn nhiều nét đặc sắc..
- ‑ Trong lễ cúng sa Yang Va của dân tộc Chơro bao giờ cũng có tục chặt hai cây chuối con về giắt trên bàn thờ với ý nghĩa cho con cháu mát mẻ, mau lớn, đông đúc..
- Tri thức về y học cổ truyền.
- ‑ Dân tộc Mường biết dùng cây rừng làm thuốc chữa bệnh sốt rét, quai bị....
- ‑ Dân tộc Thái biết chữa một vài bệnh như viêm cơ, thấp khớp, sỏi thận, thương hàn, bệnh hậu sản.
- bằng lá cây rừng..
- ‑ Người Việt có các bài thuốc dân gian cổ truyền còn ở nhiều địa phương như chữa rắn cắn, lên hạch, sốt rét....
- Tri thức về nghề thủ công truyền thống.
- cây la‑don, dây lá cây chiều trơn, vỏ cây nhào, vỏ cây trai đồi, vỏ cây trai nước, vỏ lá cây cùi đèn cái, cây chân vịt, cây chìa vôi, cây quai gùi, vỏ dây kim‑cuôn, củ riềng rừng, củ chai nhí, dây xưng đừng, vỏ cây sắc, cây bá bệnh, lá cây lòng mót, vỏ cây bời, vỏ cây chùm hum, dây trầm hương, vỏ cây bù nâu, dây lá sanh, dây lá dằn, củ nghệ, lá vỏ cây bải thưa, lá vỏ cây đỏ cọng, vỏ cây mai rừng, lá cây cơm rượu, cây chân rít, củ cây tổ rồng cánh gà, dây lá dẻ trơn, dây lá dẻ lông, củ lá cây tổ rồng bay, lá cây bông trang, lá vỏ cây lấu, cây mua, củ thiên niên kiện, rễ cây sâm cao, vỏ lá cây nàng nàng, vỏ cây cà đuối, củ cây chuối chín, vỏ cây dâu đất, dây xưng….
- ‑ Người Mạ cũng có tri thức làm men ủ rượu cần và bọc men rượu trong lớp vải để giữ hơi men..
- ‑ Người Mạ có kinh nghiệm từ việc trồng bông làm sợi, xe chỉ cho đến việc lấy vỏ cây làm màu nhuộm sợi vải đều từ những loại cây trong rừng.
- Nhìn chung, mỗi một dân tộc lại có những kho tàng tri thức dân gian của riêng dân tộc mình.
- Trong tổng thể vùng, thì miền Đông Nam Bộ có một kho tàng tri thức địa phương khá phong phú và đa dạng trên nhiều mặt của đời sống xã hội.
- Trong đó, các tri thức về sản xuất phong phú và nhiều hơn cả.
- Đối với các dân tộc ở Việt Nam, việc sản xuất chủ yếu là trồng lúa, do đó những tri thức phong phú nhất cũng được hình thành ở lĩnh vực này.
- Người Việt sống ở vùng đất thấp đã tích luỹ tất cả các tri thức về nông nghiệp và thể hiện nó trong 4 khâu kỹ thuật “nước, phân, cần, giống”….
- Hệ thống tri thức của cộng đồng đóng một vai trò rất quan trọng, nó đảm bảo sự ổn định và bền vững trong phát triển truyền thống xã hội..
- Phát triển vùng Đông Nam Bộ.
- Đông Nam Bộ là vùng kinh tế phát triển và năng động nhất nước ta, phát triển theo chiều sâu với cơ cấu công ‑ nông nghiệp.
- Do có những nguồn lực phát triển về vị trí địa lý rất thuận lợi như tiếp giáp với những vùng giàu tài nguyên và thị trường tiêu thụ lớn, có quỹ đất phong phú;.
- có khoáng sản giá trị kinh tế cao.
- Đặc biệt trên các lĩnh vực như công nghiệp, tài chính, ngân hàng, viễn thông, hàng không, thương mại, khoa học công nghệ, du lịch với tốc độ tăng trưởng cao, các mặt văn hóa, xã hội phát triển vào loại tiêu biểu của cả nước..
- Trong phát triển công nghiệp, vùng Đông Nam Bộ luôn là khu vực trọng điểm phát triển kinh tế ở phía Nam và của cả nước.
- Nơi đây tập trung được nhiều nguồn lực lao động, phát triển cơ sở hạ tầng, quản lý nhân sự, tiềm năng đầu tư….
- Từ những đặc trưng về dân cư, tôn giáo, văn hóa, kết cấu kinh tế và tổ chức xã hội, đặc biệt là bản sắc văn hóa và tri thức địa phương cho thấy đây là tổng thể của những mối quan hệ xã hội và phát triển văn hóa trong phát triển kinh tế ‑ xã hội địa phương.
- Nghiên cứu đặc tính văn hóa và tri thức địa phương của cộng đồng cư dân nhằm hiểu rõ thực trạng và tiềm năng của địa phương trong quá trình vận hành bước vào thời kỳ công nghiệp hóa ‑ hiện đại hóa là việc làm cần thiết..
- Kết hợp bản sắc văn hóa và tri thức địa phương trong phát triển vùng Đông Nam Bộ xuất phát từ quyền lợi chung của các dân tộc là một vấn đề rất quan trọng, có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong việc đề ra những chính sách kinh tế – xã hội cho trước mắt và cho quy hoạch phát triển vùng trong tương lai..
- Bản sắc văn hóa dân tộc, tri thức địa phương vùng Đông Nam Bộ cần được nghiên cứu, định vị, bảo tồn.
- cần có sự kết hợp ứng dụng trong chiến lược phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trong tổng thể nền kinh tế ‑ xã hội của đất nước trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa ‑ hiện đại hóa..
- [6] Nguyễn Thị Nguyệt (2008), Văn hóa‑ văn vật cư dân Đồng Nai, tài liệu tổng hợp điền dã sưu tầm.