« Home « Kết quả tìm kiếm

SUY NGHĨ VỀ CÁCH THỨC TỔ CHỨC GIÁO DỤC SONG NGỮ TRONG NHÀ TRƯỜNG THUỘC ĐỊA BÀN NGÔN NGỮ TÀY - NÙNG Ở VIỆT BẮC (VIỆT NAM)


Tóm tắt Xem thử

- SUY NGHĨ VỀ CÁCH THỨC TỔ CHỨC GIÁO DỤC SONG NGỮ TRONG NHÀ TRƯỜNG THUỘC ĐỊA BÀN NGÔN NGỮ.
- Tóm tắt: Bài viết trình bày những suy nghĩ về cách thức tổ chức giáo dục song ngữ (tiếng Việt và tiếng mẹ đẻ của người dân tộc) trong nhà trường thuộc địa bàn ngôn ngữ Tày - Nùng ở Việt Bắc.
- Việc tổ chức giáo dục song ngữ trong nhà trường, theo bài viết, phải xuất phát từ thực trạng giáo dục song ngữ trong những năm qua, phải căn cứ vào đặc điểm đan xen của cảnh huống ngôn ngữ ở địa bàn, phải dựa vào bản chất của việc tiếp nhận giáo dục tiếng mẹ đẻ ở môi trường xã hội là để bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống của dân tộc và nhất là phải tôn trọng nhu cầu đa dạng trong tiếp nhận giáo dục song ngữ của học sinh..
- Về tình hình tổ chức giáo dục song ngữ trên địa bàn ngôn ngữ Tày - Nùng ở vùng Việt Bắc..
- Sau khi miền Bắc được giải phóng, thực hiện chính sách phát triển vùng dân tộc miền núi, vấn đề giáo dục song ngữ trên địa bàn ngôn ngữ Tày - Nùng ở vùng Việt Bắc đã được triển khai một cách mạnh mẽ.
- Vào những năm 60 - 70 của thế kỷ trước, hoạt động giáo dục song ngữ trên địa bàn diễn ra khá rầm rộ.
- Rất nhiều học sinh dân tộc cấp I, cấp II, thậm chí cả cấp III, ngoài việc theo học chương trình tiếng phổ thông bình thường, đã hăng hái theo học chương trình song ngữ.
- Chúng ta đã những tưởng rằng phong trào dạy và học song ngữ trên địa bàn ngôn ngữ Tày - Nùng theo đà ấy sẽ ngày càng phát triển..
- Tuy nhiên, từ cuối những năm 70 của thế kỷ trước cho đến nay, tình hình giáo dục song ngữ trên địa bàn ngày một lắng xuống.
- năm gần đây, có thể thấy hoạt động giáo dục song ngữ trong nhà trường đã ngừng trệ hoàn toàn.
- Cả các trường phổ thông lẫn các trường chuyên nghiệp đã không tổ chức hoạt động giáo dục song ngữ.
- Tình hình như thế là cơ sở để khẳng định trong những năm qua việc tổ chức giáo dục song ngữ trong nhà trường đã không thành công.
- Việc chấm dứt các hoạt động giáo dục tiếng mẹ đẻ của người.
- Mông, người Tày, người Nùng trong một khoảng thời gian khá dài như thế ở phạm vi toàn dân tộc là một hiện thực trong hoạt động giáo dục ngôn ngữ “ [5.
- Trước một tình trạng như vậy, nhằm tìm hiểu cho đúng bản chất của vấn đề, chúng tôi cho rằng để gắn hoạt động này với thực tiễn, chúng ta nhất thiết phải quan tâm đến nhận thức của người dân tộc.
- Đó là vấn đề người dân tộc có thực sự cần tiếp nhận giáo dục song ngữ hay không? Nếu có, sự tiếp nhận ấy có ích lợi cho mục đích xã hội nào? Và từ đó cách thức hoạt động sẽ phải thực hiện ra sao cho hợp lý?.
- Để trả lời cho vấn đề thứ nhất, chúng tôi đã đưa ra một câu hỏi phỏng vấn: liệu học sinh dân tộc thiểu số nói riêng, đồng bào dân tộc thiểu số nói chung có nhu cầu tiếp nhận giáo dục song ngữ hay không? Việc trả lời cho câu hỏi này nhằm giúp chúng ta loại trừ khả năng tình hình ngưng trệ hoạt động giáo dục song ngữ trong nhà trường là do người dân không có nhu cầu tiếp nhận hoạt động cũng như mục đích của hoạt động giáo dục này.
- Khi khảo cứu nội dung nói trên ở ba tỉnh miền bắc Việt Nam, trong đó có Tuyên Quang là tỉnh thuộc môi trường ngôn ngữ Việt Bắc, chúng tôi đi đến kết luận học sinh dân tộc thiểu số nói riêng, đồng bào dân tộc thiểu số nói chung có nhu cầu tiếp nhận giáo dục song ngữ, thậm chí nhu cầu ấy là rất cao.
- bày tỏ ý kiến có nhu cầu tiếp nhận giáo dục tiếng mẹ đẻ [5.
- Như vậy, việc ngưng trệ hoạt động giáo dục song ngữ không thể là do đồng bào dân tộc thiểu số không có nhu cầu thụ hưởng kết quả của hoạt động giáo dục này mà có thể là do cách thức tổ chức hoạt động của chúng ta..
- Một vấn đề đặt ra tiếp theo nữa là: về thực chất, đồng bào dân tộc thiểu số có nhu cầu thụ hưởng giáo dục song ngữ cho hoạt động xã hội nào? Cũng thông qua phiếu phỏng vấn người dân tộc ở những vùng miền khác nhau trong đó có địa bàn Tuyên Quang, chúng tôi đã thu được những ý kiến trả lời rất có ý nghĩa.
- Qua những số liệu nói trên, chúng ta có cơ sở để nhận biết rằng hoạt động giáo dục song ngữ ở địa bàn các dân tộc thiểu số gắn chặt với nhiệm vụ đầu tiên là dùng nó để duy trì hay bảo tồn và phát triển văn hoá truyền thống của dân tộc.
- Chúng tôi nghĩ rằng tính chất này của mục đích giáo dục song ngữ là rất quan trọng khi chúng ta thực hiện nhiệm vụ tổ chức hoạt động giáo dục ngôn ngữ..
- Như vậy, trong ba vấn đề đã nêu ra ở trên, có hai vấn đề dường như đã được minh bạch hoá từ phía người dân tộc thiểu số.
- Vì thế ở đây, rõ ràng gánh nặng dồn vào vấn đề thứ ba, vấn đề thuộc vào phạm trù chủ quan của nguời tổ chức hoạt động giáo dục ngôn ngữ.
- Sự thăng trầm theo hướng ngưng trệ hoàn toàn của hoạt động này, như vậy, không phải do bản thân người tiếp nhận là đồng bào các dân tộc thiểu số.
- Nói một cách khác, vấn đề ở đây là tổ chức hoạt động giáo dục song ngữ trong nhà trường cũng như ngoài xã hội dường như chưa diễn ra đúng với bản chất vấn đề, chưa đáp ứng đúng nhu cầu và mục đích thụ hưởng giáo dục song ngữ của đồng bào dân tộc..
- Đối với chúng tôi, có lẽ, cách thức tổ chức giáo dục song ngữ của chúng ta trong những năm vừa qua đã không thoả mãn sự tác động đồng thời giữa ba nhân tố chi phối hoạt động này.
- Những nhân tố đó, trước hết, là cảnh huống ngôn ngữ đan xen trong môi trường giao tiếp đa dân tộc.
- là việc chúng ta chưa nhận thấy có sự phân biệt tế nhị giữa chức năng sử dụng tiếng phổ thông và tiếng mẹ đẻ trong tiếp nhận giáo dục song ngữ .
- là tính ưu tiên của việc tiếp nhận giáo dục tiếng mẹ đẻ nhằm để bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống.
- Trong một diện tích 7813 km 2 , Hà Giang có tới 20 dân tộc anh em cùng cư trú là Mông, Dao, Tày, Nùng, Lôlô, Giáy, Bố Y, Pu Péo, Cơ Lao, Phù Lá, Pà Thẻn… thuộc nhiều nhóm ngôn ngữ khác nhau.
- Với diện tích khoảng 5820 km 2 ở đây có tới 20 dân tộc khác nhau cùng cư trú.
- Trong tổng số khoảng 145 xã, phường, thị trấn của tỉnh này, hầu như hiếm có nơi nào cộng đồng cư dân cư trú là một dân tộc thuần nhất.
- Hệ quả của tình trạng cư trú đan xen nói trên, theo quan sát của chúng tôi, là rất tiêu cực trong việc tổ chức hoạt động giáo dục ngôn ngữ, đặc biệt là giáo dục ngôn ngữ trong nhà trường.
- Trong một đơn vị nhà trường, chắc chắn sẽ có những học sinh thuộc những dân tộc khác nhau, phân bố không đều ở các lớp khác nhau.
- Đây chính là nguyên nhân dẫn đến tính đa dạng về lớp học, nguyên nhân dẫn đến sự thiếu hụt trầm trọng về giáo viên nếu ở đó người ta tổ chức hoạt động giáo dục song ngữ.
- Xã có diện tích tự nhiên là 30, 4 km 2 nhưng chỉ có số dân 948 người gồm năm dân tộc anh em là Dao (54,3.
- Vậy là nếu tổ chức giáo dục song ngữ trong nhà trường với giả định ở một địa điểm duy nhất, chí ít nhà trường của xã này cũng phải cần tới 4 giáo viên dạy tiếng mẹ đẻ cho học sinh dân tộc.
- Như vậy, khi tổ chức giáo dục song ngữ ở địa bàn, một trong những nhiệm vụ quan trọng là phải triệt tiêu sự tiêu cực do cảnh huống ngôn ngữ tác động.
- Vì là địa bàn đa dân tộc, cho nên hoạt động giáo dục song ngữ ở đây sẽ là giáo dục tiếng phổ thông và giáo dục tiếng mẹ đẻ của các dân tộc thiểu số.
- Chính điều đó làm nảy sinh một vấn đề hết sức tế nhị trong nhu cầu tiếp nhận giáo dục.
- Trong môi trường đa dân tộc, người dân có sự phân biệt mục đích tiếp nhận giáo dục tiếng phổ thông và mục đích tiếp nhận giáo dục tiếng mẹ đẻ.
- Trước đây và thậm chí cho đến hiện nay, trong việc tổ chức hoạt động giáo dục song ngữ người ta đã không tính đến sự khác biệt hết sức quan trọng này.
- Đây chính là điều chúng tôi muốn nhấn mạnh, muốn phân tích khi chúng ta tổ chức giáo dục song ngữ vì sự phân biệt ấy chính là cách nhìn nhận đúng chức năng xã hội của ngôn ngữ..
- Những khảo cứu của chúng tôi đã chỉ ra rằng, người dân tộc tiếp nhận giáo dục tiếng mẹ đẻ là để bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống, sau đó mới là sử dụng hàng ngày và cuối cùng là giúp học tốt tiếng phổ thông.
- Như những gì mà chúng ta đã phỏng vấn ở tỉnh Tuyên Quang, cả bốn dân tộc được hỏi đều xác nhận họ muốn học tiếng mẹ đẻ là để dùng nó làm phương tiện giữ gìn và qua đó phát huy bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc..
- Khác với mục đích tiếp nhận giáo dục tiếng mẹ đẻ, người dân tộc thiểu số tiếp nhận giáo dục tiếng phổ thông hướng tới mục đích phát triển.
- Mục đích phát triển được thể hiện ở đây chính là việc người dân tộc bày tỏ mong muốn tiếp tục học cao hơn để đạt tới trình độ học thức cao hơn.
- Và như vậy, người dân tộc thiểu số học tiếng phổ thông là để hướng tới sự phát triển bình đẳng giữa các dân tộc.
- 145/150 người Cao Lan (99, 33%) và 85/85 người Nùng (100%) bày tỏ nguyện vọng muốn thụ hưởng giáo dục tiếng phổ thông.
- Tính đa dạng về mục đích tiếp nhận giáo dục song ngữ của người dân tộc thiểu số như vừa trình bày ở trên đã tạo ra những hệ quả rất phức tạp.
- Sự phức tạp này trước hết thể hiện ở mối quan hệ giữa nhu cầu tiếp nhận giáo dục tiếng phổ thông và tiếng mẹ đẻ..
- Sau đó sẽ là mức độ, trình độ tiếp nhận giáo dục tiếng mẹ đẻ của những cá thể người dân.
- Tình hình này sẽ khiến cho chúng ta có rất nhiều những suy luận, những cách lựa chọn khác nhau khi tổ chức hoạt động giáo dục ngôn ngữ..
- Liên quan đến mối quan hệ giữa nhu cầu tiếp nhận giáo dục tiếng phổ thông và tiếng mẹ đẻ, theo chúng tôi, sẽ có những khả năng như sau: Trong một nhà trường có thể chỉ một nhóm học sinh dân tộc này muốn đồng thời học cả tiếng mẹ đẻ lẫn tiếng phổ thông.
- Nhưng cũng có khả năng có một nhóm học sinh dân tộc chỉ muốn học tiếng phổ thông mà thôi.
- Rõ ràng, tình hình như vậy là hết sức phức tạp, nhất là khi chúng ta tổ chức hoạt động giáo dục song ngữ..
- Trong một nhà trường, nhất định mức độ hay trình độ mong muốn học tiếng mẹ đẻ của người dân tộc cũng rất khác nhau.
- Nhóm này chỉ muốn học ở mức “xoá mù” chữ dân tộc, tức là học đủ cho biết để có thể viết được tiếng dân tộc mình.
- Nhưng cũng có thể có nhóm khác lại muốn học tiếng dân tộc “đến nơi đến chốn”.
- Theo suy nghĩ của chúng tôi bản chất của vấn đề có lẽ là, muốn thành công, việc tổ chức giáo dục song ngữ của chúng ta phải làm sao thoả mãn được những đòi hỏi của thực tế khách quan như vừa phân tích ở trên..
- VẤN ĐỀ TỔ CHỨC GIÁO DỤC SONG NGỮ TRONG NHÀ TRƯỜNG HIỆN NAY..
- Như vậy, đối với riêng chúng tôi, chúng ta đã có cơ sở để hình dung ra cách thức tổ chức giáo dục song ngữ trong nhà trường hiện nay.
- Đó là tình hình sử dụng ngôn ngữ ở địa bàn Tày - Nùng ở vùng Việt Bắc và một vài nhân tố thuộc phạm trù cơ sở và vật chất.
- Về tình hình sử dụng ngôn ngữ ở địa bàn..
- Trong số đó dân tộc Nùng có 314,444 người chiếm 42, 96%, dân tộc Tày có 262,856 người chiếm 35,59%, dân tộc Kinh có 120,724 người chiếm 16,49%, dân tộc Dao có 25,378 người chiếm 2,46%.v.v [10;18].
- Số liệu phỏng vấn tình hình sử dụng ngôn ngữ ở địa bàn người dân tộc huyện Cao Lộc của Đào Thị Quyên cho chúng ta tiếp cận với 300 người (189 người Nùng (63.
- Điều đáng nói là số người không nói được tiếng phổ thông ở cả hai dân tộc là ở vùng nông thôn (xã Hải Yến) và chủ yếu là nông dân.
- Tình hình sử dụng ngôn ngữ như vậy, rõ ràng, là không đơn giản.
- Nó chắc chắn có tác động đa chiều vào hoạt động giáo dục ngôn ngữ ở nhà trường.
- Nếu phạm vi khảo sát rộng hơn, nhiều dân tộc hơn, chúng ta sẽ có một bức tranh sử dụng ngôn ngữ đa dạng và phức tạp hơn..
- Cơ sở vật chất ở nhà trường cho giáo dục tiếng mẹ đẻ..
- Trước tình hình học sinh có khả năng sử dụng ngôn ngữ rất phức tạp như vừa phân tích ở trên, nhiều nhà trường ở địa bàn lại chưa đủ số lượng giáo viên đáp ứng tính phức tạp đó.
- Chẳng hạn, khi tập hợp số liệu phỏng vấn về khả năng sử dụng tiếng dân tộc của giáo viên ở đây, Nguyễn Thị Nhung [7] cho biết tình hình như sau.
- Thực trạng như vậy, rõ ràng, không thuận lợi gì cho việc tổ chức hoạt động giáo dục song ngữ trong nhà trường.
- Có thể nói, sự thiếu hụt giáo viên trong một tình hình học sinh có nhu cầu sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ phức tạp như trên là một thách thức rất lớn.
- Đó chính là sự thiếu hụt cơ sở vật chất quan trọng nhất trong tổ chức giáo dục song ngữ ở nhà trường..
- Đề xuất về về cách thức tổ chức giáo dục song ngữ trong nhà trường những năm tới..
- Từ những nhân tố vừa thuận lợi, vừa rất khó khăn như đã phân tích ở trên, chúng ta hình dung ra cách thức tổ chức giáo dục song ngữ trong nhà trường những năm tới như thế nào.
- Bởi vì, về bản chất phát triển bền vững vùng dân tộc thiểu số, chúng ta không thể thoái thác hoạt động này.
- Chúng ta cũng không thể chờ đợi khi mọi điều kiện phải có đủ mới tổ chức hoạt động giáo dục ngôn ngữ..
- Đó là sự đa dạng về nhu cầu cũng như sự đa dạng về mục đích tiếp nhận giáo dục song ngữ của đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và học sinh dân tộc thiểu số nói riêng ở địa bàn.
- Đó là môi trường ngôn ngữ đan xen phức tạp ở một địa bàn đa dân tộc.
- Đó cũng là việc chuẩn bị về đội ngũ giáo viên dạy tiếng mẹ đẻ của các dân tộc trên địa bàn còn nhiều khiếm khuyết mà còn lâu mới khắc phục được.
- Chúng ta cũng sẽ phải chấp nhận học sinh ở mỗi trường, thậm chí trong một lớp sẽ theo học tiếng dân tộc theo hình chóp nón từ lớp thấp đến lớp cao hơn.
- Điều này có nghĩa là không thể và thực tế là không có chuyện học sinh ở những lớp thuộc các cấp khác nhau theo học tiếng dân tộc như nhau.
- Thứ ba, vì thế trong tổ chức giáo dục song ngữ chúng ta phải chấp nhận tính đa chiều, tính không đơn tuyến của học sinh dân tộc thiểu số.
- Có như vậy, chúng ta mới giảm đến mức tối thiểu đội ngũ giáo viên ở mỗi trường nơi có tổ chức giáo dục song ngữ..
- Từ ba nguyên tắc nói trên, rõ ràng cách thức tổ chức tổ chức giáo dục song ngữ ở nhà trường phải là cách thức lồng ghép.
- Có như vậy mới thoả mãn sự lựa chọn của học sinh khi tham gia thụ hưởng hoạt động giáo dục này và như thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề..
- Bộ Giáo dục &.
- Đào tạo - Unicef - Uỷ ban dân tộc (2004), Kỷ yếu hội nghị Quốc gia chính sách, chiến lược sử dụng và dạy - học tiếng dân tộc, tiếng Việt cho các dân tộc thiểu số, Hà Nội 11 - 2004, 107 tr..
- Trần Trí Dõi (1999), Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 301 tr..
- 4.Trần Trí Dõi (2003), Chính sách ngôn ngữ văn hoá dân tộc ở Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 183 tr..
- Trần Trí Dõi (2004), Thực trạng giáo dục ngôn ngữ ở vùng dân tộc miền núi ba tỉnh phía bắc Việt Nam những kiến nghị và giải pháp, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 286 tr..
- Nguyễn Thị Nhung (2005), Khảo sát tình hình sử dụng ngôn ngữ ở một số vùng dân tộc miền núi Tuyên Quang - Hà Giang, KLTN Đại học ngành Ngôn ngữ học, ĐHKHXH và NV Hà Nội, 74 tr..
- Nguyễn Thị Kim Oanh, (2005), Tình hình sử dụng ngôn ngữ của người dân tộc thiểu sốn trên địa bàn huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên, KLTN Đại học ngành Ngôn ngữ học, ĐHKHXH và NV Hà Nội, 84 tr..
- Nguyễn Đình Phúc (2002), Đánh giá nhu cầu giáo dục ngôn ngữ ở địa bàn dân tộc xã Thanh Phát huyện Sơn Dương tỉnh Tuyên Quang, khoá luận TNĐH ngành Ngôn ngữ học, Đại học KH XH và NV Hà Nội, 55 tr..
- Đào Thị Quyên, (2005), Tình hình sử dụng ngôn ngữ của người dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Cao Lộc tỉnh Lạng Sơn, KLTN Đại học ngành Ngôn ngữ học, ĐHKHXH và NV Hà Nội, 74 tr.