« Home « Kết quả tìm kiếm

Tính sáng tạo của giáo viên mầm non trong tổ chức hoạt động tạo hình


Tóm tắt Xem thử

- TÍNH SÁNG TẠO CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON TRONG TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG.
- Chƣơng 1: LÝ LUẬN VỀ TÍNH SÁNG TẠO TRONG TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TẠO HÌNH Ở TRƢỜNG MẦM NON.
- Lý luận về sáng tạo.
- Khái niệm về sáng tạo và tính sáng tạo.
- Đặc điểm của sáng tạo.
- Các cấp độ của sáng tạo.
- Đánh giá mức độ sáng tạo.
- Tính sáng tạo của giáo viên mầm non trong tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ.
- 1.4.1.Khái niệm tính sáng tạo của giáo viên mầm non trong tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ.
- Những tiêu chí đánh giá tính sáng tạo của giáo viên mầm non trong tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ.
- Những yếu tố ảnh hưởng đến tính sáng tạo của giáo viên mẫu giáo trong tổ chức hoạt động tạo hình.
- Tổ chức nghiên cứu.
- Mức độ sáng tạo chung của giáo viên mầm non .
- Mức độ sáng tạo của giáo viên mầm non trong tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ.
- Những yếu tố ảnh hưởng đến tính sáng tạo trong tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ mầm non.
- 3.5 Mối liên hệ giữa mức độ sáng tạo của giáo viên theo test TSD-Z và mức độ sáng tạo trong tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ .
- Mối liên hệ giữa mức độ sáng tạo của giáo viên trong tổ chức hoạt động tạo hình với thâm niên công tác.
- Bảng 3.1: Mức độ sáng tạo của giáo viên mầm non xét theo test TSD-Z.
- 53 Bảng 3.2: Các tiêu chí đánh giá tính sáng tạo trong tổ chức hoạt động tạo hình của giáo viên mầm non.
- Biểu đồ 3.1: Mức độ sáng tạo chung của giáo viên mầm non.
- Biểu đồ 3.2: Mức độ sáng tạo của giáo viên mầm non trong tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ.
- Đây là hoạt động nghệ thuật và là phương tiện quan trọng trong việc giáo dục thẩm mỹ, hình thành và phát triển ở trẻ nhiều mầm mống sáng tạo.
- Vì những lý do như vậy, đề tài “Tính sáng tạo của giáo viên mầm non trong tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ” được chọn nghiên cứu..
- Chỉ ra thực trạng về tính sáng tạo trong hoạt động giảng dạy của giáo viên mầm non trong tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ hiện nay và tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng đó, nhằm đưa ra một số khuyến nghị góp phần cải thiện và phát triển tính sáng tạo của giáo viên trong tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ mầm non..
- Mức độ sáng tạo của giáo viên mầm non trong tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ..
- Tính sáng tạo của giáo viên mầm non hiện nay trong tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo đạt mức trung bình.
- Mức độ sáng tạo trong hoạt động tạo hình cho trẻ của giáo viên mầm non phụ thuộc phần lớn vào mức độ sáng tạo nói chung của mỗi cá nhân và thâm niên giảng dạy của họ..
- mô ̣t số vấn đề lý luâ ̣n , phương pháp luâ ̣n và phương pháp nghiên cứu liên quan đến tính sáng tạo của giáo viên mầm non và vi ệc tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ..
- Nghiên cứu thực tra ̣ng mức độ sáng tạo của giáo viên mầm non trong tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ..
- Nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng đến tính sáng tạo của giáo viên mầm non trong tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ..
- Hoạt động tạo hình của trường mầm non gồm nhiều nội dung, đề tài tập trung nghiên cứu tính sáng tạo của giáo viên mầm non trong tổ chức hoạt động tạo hình vẽ cho trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo lớn (từ 5 – 6 tuổi)..
- vực có liên quan đến tính sáng tạo của giáo viên mầm non trong tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ, từ đó tiếp thu kết quả nghiên cứu từ hệ thống các tài liệu này để làm rõ cơ sở lý luận của đề tài và làm rõ các khái niệm có liên quan..
- Sử dụng trắc nghiệm TSD-Z của K.Urban để đo tính sáng tạo của khách thể nghiên cứu..
- Xây dựng bảng hỏi gồm câu hỏi đóng và câu hỏi mở được sắp xếp một cách hợp lý nhằm thu thập các thông tin tổng quan về tính sáng tạo của giáo viên mầm non trong tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ..
- LÝ LUẬN VỀ TÍNH SÁNG TẠO TRONG TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TẠO HÌNH Ở TRƢỜNG MẦM NON.
- Trên thế giới, sáng tạo không phải là vấn đề nghiên cứu độc tôn của tâm lý học.
- Các học giả nghiên cứu sáng tạo dựa trên các tác phẩm văn học nghệ thuật, tự thuật của các danh nhân, tiểu sử… để đi tìm nguyên nhân, sự khác biệt nào dẫn đến sáng tạo ở con người..
- Thuật ngữ khoa học về sáng tạo (Heuristics, Creatology hay Asinveniendi) lần đầu tiên xuất hiện trong những công trình của nhà toán học Pappos sống vào nửa cuối thế kỷ III tại Alexandria – Hy Lạp.
- “Khoa học hóa tư duy sáng tạo” hay sáng tạo, theo quan niệm lúc bấy giờ, là khoa học về các phương pháp và quy tắc làm sáng chế, phát minh trong mọi lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật, chính trị, triết học, toán học, quân sự….
- Sau đó các nhà toán học và triết học nổi tiếng như Descartes, Leibnitz, Bernard Bolzano… đã có nhiều cố gắng thành lập hệ thống khoa học nghiên cứu về khả năng sáng tạo của con người tuy nhiên điều này vẫn chưa thể thực hiện được..
- Rất lâu sau đó, khoa học sáng tạo hầu như bị lãng quên.
- Mãi đến giữa thế kỷ XIX, các nhà xã hội học mới có những đóng góp đáng kể đầu tiên trong việc giải quyết vấn đề sáng tạo.
- Họ cho rằng, bản chất của tính tích cực sáng tạo là ở hoạt động tưởng tượng, nhờ hoạt động tưởng tượng mà kích thích khả năng sáng tạo.
- Sau Chiến tranh Thế giới thứ 2, vấn đề sáng tạo được chú ý nghiên cứu mạnh do đây là thời điểm nhân loại có những bước tiến vượt bậc về khoa học.
- Nước Mỹ là một nước có nền khoa học – kỹ thuật phát triển vào bậc nhất trên thế giới, bởi vậy các nhà khoa học ở đây có điều kiện thuận lợi về mặt cơ sở vật chất để tiến hành các công trình nghiên cứu về sáng tạo..
- Vào đầu những năm 1920, Lewis Terman tiến hành một số công trình nghiên cứu về sáng tạo trên những học sinh có chỉ số IQ từ 140 trở lên.
- Công trình này đã được đánh giá rất cao, sau đó ông còn nghiên cứu nhiều công trình khác cũng về lĩnh vực sáng tạo và đã rút ra nhiều điều về các vấn đề chung của sáng tạo như: nhân cách sáng tạo, sản phẩm sáng tạo….
- Năm 1938, cuốn sách đầu tiên về vấn đề sáng tạo được xuất bản, đó là cuốn sách của tác giả A.Osborn.
- Ông là một nhà kinh doanh nhưng lại hết sức quan tâm đến lĩnh vực sáng tạo, đặc biệt là tư duy sáng tạo.
- Ông đã cho ra đời 4 cuốn sách về sáng tạo và được tái bản 26 lần.
- Năm 1944, William Gardon – nhà nghiên cứu sáng tạo người Mỹ - đã đưa ra luận điểm chung về việc kích thích tư duy sáng tạo.
- Từ năm 1953 – 1959, ông đề xuất phương pháp sáng tạo với cái tên Xinetic (tiếng Hy Lạp nghĩa là kết hợp các yếu tố khác chủng loại).Các nhóm Xinetic là các nhóm bao gồm những người thuộc những ngành nghề khác nhau, gặp nhau với mục đích giải quyết những vấn đề sáng tạo bằng con đường luyện trí tưởng tượng và kết hợp với những yếu tố không thể dung hòa..
- Việc nghiên cứu một cách có hệ thống về sáng tạo bắt đầu vào năm 1950 do nhà tâm lý học Mỹ J.P.Guilford đề cập..
- Năm 1959, J.P.Guilford – Giáo sư trường Đại học Tổng hợp ở miền nam California – là nhà Tâm lý học có công đầu tiên trong việc khẳng định sự tồn tại của trí sáng tạo.
- Ông đưa ra mô hình trí tuệ gồm 120 thành tố, trong đó có 61 thành tố thông minh và 59 thành tố sáng tạo.
- Ông cho rằng sáng tạo có vai trò quan trọng trong mọi hoạt động tạo ra những giá trị mới chưa từng có trong kinh nghiệm cá nhân, hoặc chưa từng có trong kinh nghiệm xã hội..
- Đồng thời ông khuyến khích các nhà Tâm lý học tham gia nghiên cứu vấn đề này, theo hướng tìm cách trả lời những câu hỏi: Có thể nhận biết khả năng sáng tạo của con người không? Nếu có thì bằng con đường nào? Có thể phát triển được tiềm năng sáng tạo của con người không?.
- Từ đây, tính sáng tạo đã được các nhà Tâm lý học Mỹ thừa nhận là có vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của xã hội loài người..
- Holland, May, Mackinnon, F.Barron, F.P.Torrance… Nội dung của các công trình nghiên cứu đề cập đến những vấn đề cơ bản của hoạt động sáng tạo như: những tiêu chuẩn cơ bản của hoạt động sáng tạo, bản chất, quy luật của hoạt động sáng tạo, thuộc tính của nhân cách sáng tạo, vấn đề phát triển năng lực sáng tạo..
- Nước Mỹ đã đề ra yêu cầu cấp thiết cho các nhà khoa học và đầu tư lớn cho những nghiên cứu tâm lý học về sáng tạo của con người với khẩu hiệu:.
- Để cho một quốc gia có thể sống sót thì mỗi cá nhân phải suy nghĩ sáng tạo..
- Nước Mỹ đã gặt hái nhiều thành công về lĩnh vực sáng tạo nhờ chính sách phát triển này.
- Từ đó đến nay, nước Mỹ vẫn tiếp tục phát triển nghiên cứu từ việc chẩn đoán, phát triển các thành tố tạo nên sự sáng tạo nhằm chú trọng phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao..
- Các nghiên cứu của các nhà Tâm lý học ở Liên xô về vấn đề sáng tạo chủ yếu dựa trên nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Các nghiên cứu này tương đối có hệ thống, toàn diện và sâu sắc về tính sáng tạo của con người..
- Nhà Tâm lý học A.N.Luk có công trình “Tâm lý học sáng tạo” nghiên cứu những vấn đề lý luận chung của hoạt động sáng tạo..
- V.V.Puskin nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của tư duy sáng tạo, mối quan hệ giữa tư duy sáng tạo và vô thức..
- Các nhà tâm lý học L.X.Vugotxki và X.L.Rubinstein nhấn mạnh ảnh hưởng qua lại giữa tư duy và tưởng tượng trong hoạt động sáng tạo, đánh giá sự có mặt tất yếu của tưởng tượng sáng tạo trong hoạt động tư duy..
- P.A.Rudich – giáo sư, tiến sỹ Tâm lý học người Nga – nghiên cứu các đặc điểm cơ bản của quá trình tưởng tượng sáng tạo, đưa ra quan niệm rằng không phải bất kỳ loại tưởng tượng nào cũng có thể tham gia vào quá trình sáng tạo được mà chỉ có những loại tưởng tượng sáng tạo với những nét tiêu biểu như sau:.
- Ngoài ra, tác giả còn quan tâm nghiên cứu ý đồ cá nhân, tâm trạng, cách thức, khả năng, vai trò của tưởng tượng, tư duy đối với quá trình sáng tạo của con người..
- Bên cạnh các nhà Tâm lý học Mỹ và Liên Xô, các nhà Tâm lý học Ba Lan, Đức, Tiệp Khắc, Bulgari cũng rất quan tâm nghiên cứu vấn đề sáng tạo cả về lý luận lẫn thực nghiệm..
- Năm 1984, nhà Tâm lý học người Đức Erika Landau trong cuốn sách của mình đã khẳng định: “Trí sáng tạo là một thuộc tính bổ sung, mở rộng trí thông minh.
- Trí sáng tạo được hình thành dựa trên trí thông minh, nó mở rộng và nâng cao trí thông minh bằng cách tìm ra mối quan hệ mới giữa những thông tin đã biết”.
- M.A.K.Naudov – viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Bungary – đã có công trình nghiên cứu về bản chất sáng tạo của văn học.
- Trong tác phẩm “Tâm lý học sáng tạo văn học” ông đã đề cập đến các vấn đề quá trình sáng tạo, các yếu tố ý thức của sáng tạo văn học và vấn đề cảm hứng sáng tác dưới góc độ triết học duy vật biện chứng..
- Năm 1994, trắc nghiệm sáng tạo TSD- Z của tác giả người Đức Klaus K.
- Các bức tranh sau đó được chấm điểm theo 14 tiêu chí, phản ánh cấu trúc sáng tạo mà trắc nghiệm muốn đo lường theo mô hình lý thuyết sáng tạo của Klaus K.
- Có thể thấy rằng nghiên cứu về sáng tạo là một lĩnh vực được các nhà tâm lý học rất quan tâm, đặc biệt là trong những năm gần đây, các lĩnh vực.
- nghiên cứu về sáng tạo ngày càng phong phú và phát triển, có thể tựu trung thành một số hướng nghiên cứu sau:.
- Nghiên cứu sáng tạo dưới góc độ quá trình sáng tạo, bao gồm các bước đi đến những ý tưởng sáng tạo mới..
- Nghiên cứu sáng tạo dưới góc độ nhân cách, làm cơ sở định hướng và phát triển những nhân cách sáng tạo..
- Nghiên cứu sáng tạo dưới góc độ văn hóa: nghiên cứu những yếu tố văn hóa tác động đến tính sáng tạo của con người..
- Nghiên cứu sáng tạo dưới góc độ sinh lý thần kinh: nhằm lý giải sáng tạo dưới góc độ sinh học..
- Nghiên cứu sáng tạo dưới góc độ phân tích sản phẩm hoạt động, làm cơ sở để đánh giá mức độ sáng tạo của mỗi cá nhân và cộng đồng..
- Mỗi nhà khoa học nghiên cứu về sáng tạo đều có cách nhìn và cách hiểu riêng của họ, có người nghiên cứu về quy luật, có người nghiên cứu về bản chất… tuy nhiên hầu như mọi nghiên cứu đều hướng đến mục đích phát triển tính sáng tạo của con người một cách toàn diện nhất.
- Điều đó có nghĩa là tất cả các nhà khoa học đều nhận thấy tầm quan trọng và tính thực tiễn của việc nghiên cứu tính sáng tạo, từ việc nghiên cứu trên lý thuyết và thực nghiệm các nhà khoa học mong muốn có thể tìm ra những phương pháp hiệu quả giúp tăng cường khả năng sáng tạo của con người nói riêng và thúc đẩy sự phát triển của xã hội nói chung..
- Năm 1990, Viện Khoa học giáo dục thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ quan khoa học đầu tiên tại Việt Nam nghiên cứu về trí sáng tạo của học sinh.
- Các nghiên cứu này nhằm mục đích tìm ra con đường giáo dục có thể phát huy tối đa tính sáng tạo ở học sinh nước ta..
- Lê Thị Bằng (1998), Bước đầu đánh giá về tưởng tượng sáng tạo của sinh viên trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ..
- Thúc Hanh (1996), Sáng tạo và thưởng ngoạn, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật..
- Nguyễn Trọng Hoàn, Liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật – phẩm chất tâm lý sáng tạo trong giảng văn học, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 4/1998..
- Lê Huy Hoàng (2002), Sáng tạo và những điều kiện chủ yếu để kích thích sự sáng tạo của con người Việt Nam hiện đại, NXB Khoa học Xã hội Hà Nội..
- Phạm Thu Hương (2000), Tiềm năng sáng tạo và biểu hiện của nó trong vận động theo nhạc ở trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi, Luận văn Thạc sỹ..
- Đỗ Thị Thanh Mai (2000), Nghiên cứu khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo lớn 5 – 6 tuổi thông qua hoạt động vẽ, Luận văn Thạc sỹ..
- M.A.Nanđôp (1978), Tâm lý học sáng tạo văn học, NXB Văn học..
- Nguyễn Huy Tú (2002), Về tiềm năng sáng tạo của học sinh hiện nay, Tạp chí Giáo dục số 25, t3..
- Nguyễn Huy Tú (2004), Vấn đề tư duy sáng tạo và chỉ số sáng tạo, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 11 năm 2004..
- Nguyễn Huy Tú (2005), Về tính sáng tạo và chỉ số sáng tạo CQ, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội..
- Nguyễn Huy Tú (2006), Hiện trạng mức độ tính sáng tạo của sinh viên Sư phạm, Báo cáo tổng kết đề tài Nghiên cứu khoa học cấp Bộ..
- Nguyễn Huy Tú (2007), Bộ trắc nghiệm sáng tạo TSD – Z của Klaus K.Urban với những ứng dụng ở nước ngoài và Việt Nam, NXB Đại học Sư phạm.