« Home « Kết quả tìm kiếm

mono no aware


Tóm tắt Xem thử

- còn được dịch là "một sự cảm thôngđối với những thứ", hoặc "nhạy cảm một con thiêu thân," là một thuật ngữ Nhật Bản được sử dụng để mô tả nhận thức của mujo hoặc tínhtạm thời của sự vật và nỗi buồn một cách nhẹ nhàng (hoặc wistfulness) tại qua của họ.
- Thuật ngữ này được đặt ra vào thế kỷ thứ mười támcủa thời kỳ Edo của Nhật Bản văn hóa học giả Motoori Norinaga, và ban đầu là một khái niệm được sử dụng trong phê bình văn học củaông về The Tale of Genji, và sau đó áp dụng cho các công trình tinh Nhật Bản bao gồm cả Man'yōshū, trở thành trung tâm với triết lý củaông về văn học, và cuối cùng truyền thống văn hóa Nhật Bản.Từ này có nguồn gốc từ mono từ Nhật Bản, có nghĩa là "thứ" và nhận thức, đó là một biểu hiện thời Heian bất ngờ đo (tương tự như "ah"hay "oh.
- phạm vi của nó là không giới hạn văn học Nhật Bản, và trở thànhkết hợp với truyền thống văn hóa Nhật Bản (xem thêm sakura).nghệ sĩ manga nổi tiếng người sử dụng mono không có nhận thức phong cách kể chuyện bao gồm Hitoshi Ashinano, Kozue Amano, vàKaoru Mori.
- Các tinh túy "của Nhật Bản" Yasujiro Ozu là đạo diễn nổi tiếng với việc tạo ra một cảm giác mono không có ý thức, thườngxuyên lên tới cực điểm với một nhân vật nói rất understated "ii tenki desu ne" (Đó là thời tiết tốt, phải không.
- Sau khi cả hai một sự thayđổi mô hình gia đình và xã hội, chẳng hạn như con gái được kết hôn, trong bối cảnh của Nhật Bản nhanh chóng thay đổi.
- Rừng Na Uy củanhà văn Nhật Bản Haruki Murakami là một ví dụ về cảm giác này là tốt.
- Ivan Morris trong Thế giới của Hoàng tử Shining so sánh vớirerum lacrimae hạn của Virgil.Mono không có nhận thức: các thẩm mỹ làm đẹp Nhật BảnNghĩa đen là "một sự nhạy cảm với sự vật," mono không có ý thức là một khái niệm mô tả bản chất của văn hóa Nhật Bản, phát minh bởicác tác phẩm văn học và ngôn ngữ học giả Nhật Bản học giả Motoori Norinaga trong thế kỷ thứ mười tám, và vẫn là cấp bách nghệ thuậttrung ương ở Nhật Bản cho đến ngày nay.
- nhận thức, mà trong Heian Nhật Bản có nghĩa là độ nhạy cảmhay nỗi buồn, và mono từ, có nghĩa là mọi thứ, và mô tả vẻ đẹp như là một nhận thức về tính tạm thời của tất cả mọi thứ, và nỗi buồn mộtcách nhẹ nhàng tại qua của họ.
- Nó cũng có thể được dịch là "Ness-ah" của sự vật, của cuộc sống, và tình yêu.Mono không có ý thức đưa tên vào một thẩm mỹ mà đã tồn tại trong âm nhạc Nhật Bản, nghệ thuật và thơ ca, nguồn gốc của chúng có thểđược truy tìm trực tiếp đến sự ra đời của Phật giáo Thiền trong thế kỷ thứ mười hai, một triết lý tâm linh và thực hành có ảnh hưởng sâusắc tất cả các khía cạnh của Nhật Bản văn hóa, đặc biệt là nghệ thuật và tôn giáo.
- Những lý tưởng của Nhật Bản nhìn thấy vẻ đẹp thay vì như là một kinh nghiệm của trái tim và linh hồn, cảm giác cho và đánh giácao của các đối tượng hoặc tác phẩm nghệ thuật - thông thường nhất hay mô tả tính chất của - trong trạng thái nguyên sơ hoang sơ,.Một sự đánh giá cao về vẻ đẹp như là một nhà nước mà không cuối và không thể được hiểu là không giống như chủ nghĩa hư vô, và tốthơn có thể được hiểu trong quan hệ với triết lý Thiền của Phật giáo của siêu trần thế: một khát khao tinh thần cho rằng đó là vô hạn và vĩnhcửu - các nguồn gốc của tất cả vẻ đẹp của thế gian.
- Quả thật, nếu không có sự đánh giá cao, vẻ đẹp không phải là vẻ đẹp cả.Và vẻ đẹp xứng đáng với tên gọi của nó chỉ khi nó đã được đánh giá cao .*Người sáng lập * mono không có * biết, Motoori Norinaga là học giả nổi tiếng trước của phong trào Kokugakushu, mộtphong trào quốc gia đó đã tìm cách loại bỏ tất cả các ảnh hưởng bên ngoài từ văn hóa Nhật Bản.
- Nghĩa đen là "một sự nhạy cảm với sựvật," mono không có ý thức là một khái niệm mô tả bản chất của văn hóa Nhật Bản, phát minh bởi các tác phẩm văn học và ngôn ngữ họcgiả Nhật Bản học giả Motoori Norinaga trong thế kỷ thứ mười tám, và vẫn là cấp bách nghệ thuật trung ương ở Nhật Bản cho đến ngàynay.
- Cụm từ có nguồn gốc từ từ nhận thức, mà ở Heian Nhật Bản có nghĩa là độ nhạy cảm hay nỗi buồn, và mono từ, có nghĩa là mọi thứ,và mô tả vẻ đẹp như là một nhận thức về tính tạm thời của tất cả mọi thứ, và nỗi buồn một cách nhẹ nhàng tại qua của họ.
- Dương Ngọc Dũng AWARE, “VĂN HỌC” (BUNGAKU) VÀ “VĂN HỌC HEIAN I-GIỚI THUYẾT VẤN ĐỀ Những người làm công tác giảng dạy văn học nước ngoài, chẳng hạn người Việt Nam giảng dạy văn học Anh,Trung Quốc, Nhật Bản, đôi khi bị những nghi ngờ dằn vặt rất khó trả lời như: Tôi có thực sự hiểu một tác phẩm văn học ngoại quốc nàođó, thí dụ vở kịch Hamlet của Shakespeare hay một bài thơ haiku của Basho, như người bản xứ hiểu? Câu hỏi này cũng không phải là khógiải đáp nếu người dạy có cơ hội được sang Anh hay Nhật Bản du học về môn văn chương Anh hay văn học Nhật Bản để tự mình kiểmnghiệm lại hiểu biết của mình trong khi trao đổi với các học giả, giáo sư của đất nước đó.
- Đại đa số quần chúng nói chung đều không hiểu biết và cũngkhông quan tâm đến cái gọi là “văn học” mà chỉ có các học giả hay giáo sư mới đủ trình độ thưởng thức.
- Ngay cả giới trí thức Nhật Bảntrung bình ngày nay mấy ai đọc nổi bộ Vạn Diệp Tập (Manyòshù) viết bằng ngôn ngữ Nhật Bản cổ? Trí thức Ấn Độ mấy ai đọcNatyasastra? Trí thức Trung Quốc ai đọc Văn Tâm Điêu Long trong khi ngay cả các chuyên gia về Lưu Hiệp vẫn tiếp tục viết sách tranhcãi về từng chữ, từng ý trong tác phẩm ấy? Các học giả bên Anh vẫn tiếp tục cho ra đời vô số luận án tiến sĩ về Shakespeare nhưng cácsinh viên đại học có mấy người thưởng thức nổi những vở kịch viết bằng tiếng Anh thế kỉ 16? Ngày nay tại Việt Nam mấy ai đọc thơNguyễn Trãi hay Truyền kỳ mạn lục ngoại trừ các chuyên gia của Viện Hán Nôm? Đẩy vấn đề đi sâu hơn nữa chúng ta có quyền đặt câuhỏi: Ai là những người đầu tiên “ấn định” và “biên tập” cho chương trình “văn học” của một quốc gia? Ai là người có đủ thẩm quyền phânbiệt giữa tác phẩm “văn học” và những tác phẩm “phi văn học”? Thẩm quyền đó ở đâu ra? Lịch sử tiến hoá của dòng văn học không chothấy những quan điểm thống nhất ngay từ ban đầu, những xung đột, va chạm liên quan đến chính trị, quyền lực, thậm chí cả sự tình cờ đưađẩy.
- Trong bài này chúng tôi chỉ muốn nghiên cứu một trường hợpcụ thể là nhìn lại, một cách sơ lược, tiến trình xây dựng những nội dung cụ thể của “văn học Nhật Bản” (Nihon bungaku), nội dung ý nghĩacủa thuật ngữ “văn học” (bungaku) trong bối cảnh Nhật Bản có so sánh với văn học Trung Quốc và Việt Nam, cũng như tập trung thảoluận ý nghĩa của khái niệm aware, một khái niệm vẫn được xem là khái niệm thẩm mỹ quan trọng nhất, nền tảng nhất của văn học NhậtBản nói riêng và ý thức thẩm mỹ của dân tộc Nhật Bản nói chung.II- Khái niệm Aware Những học giả viết về văn học Nhật Bản đã quá quen thuộc với khái niệm aware và mono no aware, một khái niệmgắn liền với tên tuổi của Motoori Norinaga (Bản Cư Tuyên Trường .
- Chính Norinaga, trong một thiên tiểu luận ngắn có tênAware ben (A Ba Lễ biện) là người đầu tiên đưa ra quan điểm cho rằng mono no aware là “tinh hoa” (hon’i=bản y) không những của cảnền văn học monogatari thời Heian mà còn của tất cả thi ca Nhật Bản (waka=Hoà ca).
- Kể từ thờiđại của các thần linh cho đến ngày nay, và thậm chí cả cho đến khi thời gian ngừng trôi, tất cả những bài thơ Nhật Bản đã được và sẽ đượcviết ra cũng sẽ trở về với thuật ngữ duy nhất này”.
- Từ thời Norinaga cho đến thời Meiji (Minh Trị) khái niệm và thuật ngữ mono no awarexuất hiện rải rác trong những công trình viết về văn học sử Nhật Bản.
- Hiromichi đã mở rộng khái niệm của Norinaga, xem xét văn học Nhật Bản căn cứ trên nhiều yếu tốkhác với quan điểm mono no aware.
- Một thế kỉ sau khi Norinaga viết chuyên khảo đầu tiên về văn học và thi ca Nhật Bản, TsubouchiShòyò (Bình Nội Tiêu Dao), một sinh viên trẻ đang theo học với Ernest Fenellosa tại đại học Tokyo, khi viết bài phê bình vở kịch Hamletcủa Shakespeare, đã sử dụng quan niệm của Nho Giáo, kanzen chòaku (khuyến thiện trừng ác) trong lý luận văn học của mình.
- Ông chorằng văn học là một vũ trụ tự sinh tồn, hoàn toàn độc lập với các giá trị đạo đức.
- Tsubouchi về sau đã thay đổi quan điểm của mình khi viếtShòsetsu shinzui (Tiểu thuyết thần tủy=Tinh hoa của tiểu thuyết), chuyên luận đầu tiên về tiểu thuyết trong lịch sử văn học Nhật Bản.Trong tác phẩm này Tsubouchi chống lại lý luận văn học “khuyến thiện trừng ác” và sử dụng quan niệm mono no aware của Norinaga nhưmột quan niệm thẩm mỹ lý tưởng, không những áp dụng cho văn học Nhật Bản mà còn cho toàn thể văn học trên thế giới.
- Trong cái nhìn của Sassa Seisetsu, văn học Heian là nền văn học duy nhấttrên thế giới được xây dựng bằng cảm tính.
- Nhưng khái niệm aware chỉ thực sự trở nên phổbiến trong giới trí thức mỗi khi bàn luận đến văn học Nhật Bản là do công lao của Muraoka Tsunenetgu (Thôn Cương Điển Tự), tác giảcuốn Motoori Norinaga xuất bản năm 1911.
- Có lẽ Muraoka là người đầu tiên sử dụng khái niệm này như mộtkhái niệm thuộc phạm trù lý luận văn học.
- Với bài viết này ý nghĩa của khái niệm mono no aware như một yếu tố đối lập với yếu tố tôn giáo và truyềngiảng đạo đức trong văn học đã được xác lập.
- Cùng với Watsuji, các học giả, giáo sư tại đại học Tokyo, những người chịu ảnh hưởng tưtưởng ngữ văn Đức sâu đậm, cũng đang chuyển động theo hướng “kiến lập” một nền văn học quốc gia cho Nhật Bản hiện đại, trong đó vănhọc Heian và khái niệm aware sẽ được tôn vinh và định hình như nền văn học và khái niệm văn học quan trọng nhất trong lịch sử văn họcNhật Bản.
- Trong tác phẩm U huyền và Aware (Yùgen to Aware) xuất bản năm 1939, Onishi Yoshinori (Đại Tây Khắc Lễ) nỗ lực chứngminh rằng những quan niệm như aware, yùgen, sabi thật ra là những phạm trù thẩm mỹ học phổ quát, chung cho toàn thể nhân loại chứkhông phải sở hữu riêng của văn hoá Nhật Bản.
- Năm năm trước đó, một học giả khác, Okazaki Yoshie (Cương Kỳ Nghĩa Huệ), tác giả củacuốn Văn nghệ học Nhật Bản (Nihon bungeigaku), lại có quan điểm ngược lại: aware là tinh hoa của riêng văn học Nhật Bản.
- Nhưng khiOkazaki cố gắng lý giải quan niệm này, chính ông cũng không thể định nghĩa rõ ràng aware là “cái gì.” Ngày nay thì một sinh viên mớinhập môn ngành văn học Nhật Bản cũng có thể biết rằng aware là một khái niệm thẩm mỹ học mô tả tính “bi cảm” trong Genjimonogatari và okashi là một khái niệm thẩm mỹ học nhằm mô tả tính hài hước trong Makura no sòshi của Sei Shonagon.
- Sự giải thích của chính Norinaga chỉ làm khái niệm aware càng trở nên mơ hồ hơn chứ cũng chẳng giúp ích bao nhiêu cho nhữngngười tìm hiểu văn học Nhật Bản.Trong bài viết “Bàn về tư tưởng aware” (Aware no shisò ni tsuite) trong bộ sử khổng lồ Nihon bungakuhyòronshi (Nhật Bản Văn Học Bình Luận Sử), tác giả Hisamatsu Sen’ichi (Cửu Tùng Tiềm Nhất) cố gắng giải thích quan niệm mono noaware từ góc độ “lịch sử tinh thần” (seishin shi), xem đây là một hình thái đặc trưng của cảm thức Nhật Bản khi tiếp xúc với thế giới ngoạitại một cách hồn nhiên, sơ nguyên nhất.
- Theo Hisamatsu, aware không phải đơn thuần chỉ là nền tảng của văn học và thi ca Nhật Bản mànó còn thể hiện ý thức thẩm mỹ nói chung của dân tộc Nhật Bản.
- Đó chính là bào thai nuôi dưỡng vẻ đẹp Nhật Bản (Nihon teki bi nohotai=Nhật Bản đích mỹ chi mẫu thai).
- Aware, nhìn từ quan điểm này, không phải chỉ gắn bó với thế giới cao nhã của văn họcHeian (Bình An), mà còn là lý tưởng nền tảng tạo ra đặc trưng phong cách tinh thần cho cả Man’yòshù.[10]Cần phải nói đôi chút vềHisamatsu Sen’nichi vì ông là một trong nhà nghiên cứu văn học cổ điển xuất sắc nhất của Nhật Bản trong thời kỳ Shòwa(Chiêu Hoà .
- Điển hình là Ueda Mannen chuyênvề ngôn ngữ học Nhật Bản, Fujimura Tsukuru chuyên về Saikaku và Chikamatsu, Sasaki Nobutsuna chuyên vềMan’yòshù và lịch sử waka, Kaito Matsuzò chuyên về lịch sử phong tục tập quán cổ đại Nhật Bản (yùsoku kojitsu) và phươngpháp nghiên cứu văn học.
- Tiêu chí chính của một nhà văn bản học khi nghiên cứu một tác phẩm văn học chính là khảo sátlịch sử truyền bản và lịch sử tiếp nhận của tác phẩm đó.
- Ngữ văn học (bunkengaku) có mục tiêu là thấu hiểu tinh thần văn hoá (bunka seishin) của một dân tộc được thể hiện ratrong các tác phẩm văn học tiêu biểu của dân tộc đó.
- Nói cách khác, ngữ văn học chính là văn hoá học (bunkagaku).
- Qua các thao tác phiên dịch và sáp nhậpnày Hisamatsu đã nỗ lực chứng minh rằng tinh thần chính của dân tộc Nhật Bản là “cổ đạo” (kòdo), tức Thần đạo (Shinto) và toàn bộ tinhthần này được thể hiện đầy đủ nhất, trọn vẹn nhất trong các kiệt tác văn học như Man’yòshù hay Genji monogatari.
- Những ưu tư khác củacác học giả Đức trong ngành ngữ văn học Hisamatsu không cần quan tâm đến.[11]Công trình xuất sắc của Hisamatsu chính là nỗ lực kếtnối aware với nhiều khái niệm thẩm mỹ quan trọng khác trong lịch sử phát triển tinh thần Nhật Bản.
- Đặc biệt khi chỉ có aware kết hợp với taketakashimột phong cách thẩm mỹ mới xuất hiện: yugen (u huyền), một phong cách nền tảng của kịch Nô.[12]Khi diễn dịch aware thành “giọt lệdưới ánh trăng” chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng các học giả Nhật Bản muốn liên kết sự thảo luận về mono no aware với một đặc trưngđộc đáo nhất của văn học Heian: đó là một nền văn học tràn đầy nữ tính về phương diện cảm thức cũng như về phương diện thực tiễn sángtác.[13] Kiệt tác đỉnh cao của thời kỳ này đương nhiên phải là Genji monogatari, tác phẩm của một phụ nữ,[14] nhưng chúng ta cũngkhông nên bỏ qua không nhắc đến một tác phẩm khác trong văn học thời Kamakura có công năng soi sáng những góc cạnh khác mà Genjimonogatari không nhắc tới trong đời sống cung đình: Nhật ký của Nijò (nguyên tác Nhật ngữ: Towazugatari).
- Trong cái thếgiới ảo mộng phù hoa (yume maboroshi no yò naru yo) bị ám ảnh bởi tư tưởng mạt pháp (mappò) của Phật Giáo, cả hai tác phẩm, Genjimonogatari và nhật ký của Nijò, đều thống nhất cảm thức chung của văn học Nhật Bản thời trung thế: thế giới mà chúng ta đang sống chỉlà một giấc mộng.
- Vào năm 1168 nhà sư Chòken viết một tác phẩm có tựa đề Genji Ippon Kyò (Nguyên Thị Nhất Bản Kinh=Mộtquyển kinh về tác phẩm Genji monogatari) để phản đối loại tiểu thuyết phù hoa thời Heian mà Murasaki Shikibu là tác giả điển hình.Trong quan điểm của Chòken, cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất trong văn học Nhật Bản này chỉ làm hư hỏng độc giả, phá hoại bản chất đạođức của họ bằng những câu truyện tình quan hệ dâm đãng.
- Trên mỗi chương chép lạinhư thế hãy ghi tên một chương trong Genji monogatari.[18] Noi gương Bạch Cư Dị, nhà sư này đã góp phần hợp thức hoá vai trò của vănhọc bằng cách liên kết văn học với tinh thần sùng bái tôn giáo.Sự biện minh đầu tiên cho tiểu thuyết (monogatari =vật ngữ) xuất hiện vàođầu thế kỉ 13 với tác phẩm Mumyòzòshi (Vô Danh Thảo Tử), tương truyền là sáng tác của con gái Shunzei (Shunzei no Kyò no musume).Trong luận văn này tiểu thuyết được xem là sản phẩm thú vị nhất, hay ho nhất, hấp dẫn nhất trên thế gian này.
- Chẳng phải do sự sùng bái nhiệt thành đức Phật mà tác phẩmnày có thể ra đời hay sao?”[19] Một trong những đặc trưng của văn học Heian nói riêng và văn học Nhật Bản nói chung chính là mối dâyliên hệ sâu xa giữa cảm thức tôn giáo và cảm thức thẩm mỹ.[20.
- Phạm vi của Mono no aware không chỉ giới hạn trong văn học Nhật Bản mà còn gắn liền với văn hóa truyền thống Nhật Bản.
- Việc giảm giá đã được coi là huyền thoại, nhưng yêu vì bất hạnh thất bại rất và của họ.Ví dụ thường xuyên được trích dẫn của mono không có nhận thức đương đại Nhật Bản là tình yêu truyền thống của hoa anh đào, là biểuhiện của rất lớn đám đông của những người mà đi ra ngoài hàng năm để xem sakura.
- Các hoa của các cây anh đào Nhật Bản thực chấtkhông có đẹp hơn những của, nói rằng, những quả lê hoặc cây táo: họ có nhiều đánh giá cao vì của tính tạm thời của họ, vì họ thường bắtđầu rơi trong vòng một tuần đầu tiên của họ xuất hiện.
- Đó chính xác là phù du của cái đẹp của họ mà gợi lên cảm giác biểu lộ của monokhông có nhận thức ở người xem.Nhật Bản cổ đạiCác hoa của Văn học Nhật BảnShintoTokugawa Nhật BảnTokugawa Nhật BảnThuật ngữ Nhật BảnKokugakuCác dự án văn hóa năng động nhất của thời kỳ Tokugawa đã gần như chắc chắn là cố gắng để xác định các nhân vật cơ bảncủa Nhật Bảnbởi các học giả và nhà thơ người được gọi là dòng kokugakushu, hoặcQuốc gia (hoặc tiếng Nhật) nghiên cứu học giả.
- Phong trào này đa dạng, trong đó ảnh hưởng thơ ca và âm nhạc Nhật Bản và dẫn đến mộtsự hồi sinh của Shinto và sau đó, trong thời kỳ Minh Trị, sự hồi sinh của Tennoism, thấy như là mục tiêu chính của nótinh chế văn hóaNhật Bản từ Đất bãi bồi nước ngoài.
- Cuối cùng,các hiện vật mà họ tinrằng hầu hết các định nghĩa nhân vật Nhậtđầu Nhật Bản thơ, đại diện là thơ Manyoshu (người đầu tiênbộ sưu tập của thơ ca tại Nhật Bản)và theo đạo Shinto.
- Shinto,Tuy nhiên, đã có nhiều ảnh hưởng của Phật giáo đến khi có nóKhông thể trích xuất từ ý tưởng Phật giáo Shinto và thực tiễn.Nhật Bản cổ đạiHeian Nhật BảnTokugawa Nhật BảnMotoori NorinagaThuật ngữ Nhật BảnNhận thứcCác ảnh hưởng nhất của kokugakushu được Motoori Norinaga một học giả văn học và ngôn ngữ.
- Ông đã phát minh ra khái niệm quan trọngcủa mono không có ý thức để định nghĩa thiết yếu của Nhật Bản và Nhật Bảnvăn hóa.
- Các cụm từ, bắt nguồn từ nhận thức, trong đó, ở Heian Nhật Bản có nghĩa làmột cái gì đó như "nhạy cảm" hay "nỗi buồn", có nghĩa là "nhạy cảm những điều "Motoori.
- các cuộc gặp gỡ "di chuyển" hoặc "cảm động" họ ("nhận thức")-vì thế mà nhân vật độc đáo của Nhật Bản: “hạy cảm với nhữngđiều" (mono không có ý thức).
- Khái niệm này đã trở thành trung tâmkhái niệm thẩm mỹ ở Nhật Bản thậm chí vào thời kỳ hiện đại.Richard HookerBản dịch từ Tiếng Anh sang Tiếng ViệtMono không có nhận thức: Làm đẹp ở Nhật BảnĐăng dưới: nghệ thuật, sắc đẹp, Nhật Bản, cuộc sống, Sri chinmoy Nghĩa đen là "một sự nhạy cảm với sự vật," mono không có ý thức làmột khái niệm Nhật Bản đặt ra bởi học giả văn học và ngôn ngữ Motoori Norinaga tại thế kỷ thứ mười tám để mô tả bản chất của văn hóaNhật Bản, và nó vẫn là bắt buộc trung tâm nghệ thuật tại Nhật Bản cho đến ngày nay.
- Các cụm từ bắt nguồn từ một từ nhận thức, mà ởHeian Nhật Bản có nghĩa là độ nhạy cảm hay nỗi buồn, và mono từ, có nghĩa là mọi thứ, và mô tả vẻ đẹp như là một nhận thức về tính tạmthời của tất cả mọi thứ, và một cách nhẹ nhàng lúc đi nỗi buồn của họ.
- Nó cũng có thể được dịch là "Ness-ah" củađiều, cuộc sống và tình yêu.Mono không có ý thức đưa tên vào một thẩm mỹ mà đã tồn tại ở Nhật Bản nghệ thuật, âm nhạc và thơ ca, nguồn gốc của chúng có thểđược truy tìm trực tiếp đến giới thiệu của Phật giáo Thiền trong thế kỷ thứ mười hai, một tinh thần triết học và thực hành mà ảnh hưởngsâu sắc tất cả các khía cạnh củaVăn hóa Nhật Bản, đặc biệt là nghệ thuật và tôn giáo.
- Các chủ đề của mộtngàn bài thơ và một quốc gia biểu tượng, cây hoa anh đào Nhật Bản là hiện thân cho vẻ đẹp như là một thoáng qua kinh nghiệm.Mono không có trạng thái nhận thức được rằng vẻ đẹp là một chủ quan hơn là mục tiêu kinh nghiệm, một trạng bị cuối cùng nội bộ hơn làbên ngoài.Phần lớn dựa vào những lý tưởng cổ điển Hy Lạp, vẻ đẹp ở phương Tây là tìm kiếm trong sự hoàn thiện cuối cùng của một đối tượng bênngoài: một bức tranh tuyệt, điêu khắc hoàn hảo hoặc thành phần âm nhạc phức tạp, một vẻ đẹp mà có thể được cho là chỉ là bềngoài.
- Những lý tưởng của Nhật Bản nhìn thấy vẻ đẹp thay vì là một kinh nghiệm của những trái tim và linh hồn, một cảm giác cho vàđánh giá cao các đối tượng hoặc tác phẩm nghệ thuật, phổ biến nhất là mô tả bản chất hoặc của-trong một nguyên sơ, ảnh hưởng nhànước.Một sự đánh giá cao về vẻ đẹp như là một nhà nước mà không cuối và không thể nắm không giống như chủ nghĩa hư vô, và tốt hơn có thểđược hiểu liên quan đến triết lý Thiền của Phật giáo của siêu trần thế: atinh thần khao khát cho rằng đó là vô hạn và vĩnh cửu cuối cùng nguồn gốc của tất cả vẻ đẹp của thế gian.
- nếu không có sự đánh giá cao, vẻ đẹp không phải là vẻ đẹpcả.
- Người sáng lập mono không có ý thức, Motoori Norinaga là tiền học giả lỗi lạc của phong tràoKokugakushu, một phong trào quốc gia đó tìm cách để loại bỏ tất cả các ảnh hưởng bên ngoài từ văn hóa Nhật Bản.Kokugakushu đã có ảnh hưởng lớn lao trong nghệ thuật, âm nhạc, thơ và triết học, và chịu trách nhiệm về sự hồi sinh trong thời kỳTokugawa các tôn giáo Shinto.
- Mono không có ý thức đưa tên vào một thẩm mỹ mà đã tồn tại ở Nhật Bản nghệ thuật, âm nhạc và thơ ca, nguồn gốc của chúng có thể được truy tìm trực tiếp đếngiới thiệu của Phật giáo Thiền trong thế kỷ thứ mười hai, một tinh thần triết học và thực hành mà ảnh hưởng sâu sắc tất cả các khía cạnh của Văn hóa Nhật Bản, đặc biệt là nghệ thuật và tôn giáo.
- Mono không có trạng thái nhận thức được rằng vẻ đẹp là một chủ quan hơn là mục tiêu kinh nghiệm, một trạng bị cuối cùng nội bộ hơn là bên ngoài.
- Những lý tưởng của Nhật Bản nhìn thấy vẻ đẹp thay vì làmột kinh nghiệm của những trái tim và linh hồn, một cảm giác cho và đánh giá caocác đối tượng hoặc tác phẩm nghệ thuật phổ biến nhất là mô tả bản chất hoặc của?? trong mộtnguyên sơ, ảnh hưởng nhà nước.
- Để cho Nhật Bản được một người chiến thắng trong một thế giới tư bản khốc liệt, Nhật Bản phải được xãhội đã thực sự cạnh tranh, loại bỏ các yếu tố như không hiệu quả như thời gian sinh việc làm.Hiroshi SakuraiGiáo sư, Trường Nghiên cứu Quốc tế tự do, Đại học WasedaToàn cầu hóa và xã hội Nhật BảnNgười ta thường nói rằng giá trị được chia sẻ trong thời đại toàn cầu hóa khả năng cạnh tranh, đó là giá trị của kẻ mạnh.
- Để cho Nhật Bảnđược một người chiến thắng trong một thế giới tư bản khốc liệt, Nhật Bản phải được xã hội đã thực sự cạnh tranh, loại bỏ các yếu tố nhưkhông hiệu quả như thời gian sinh việc làm.
- Trong nhiều năm, cuộc cải cách cấp tiến đã được thực hiện theo ý tưởng như vậy, nhưng trongthực tế, xã hội Nhật Bản bị giảm phát và một bi quan nhìn về tương lai của Nhật Bản dường như chiếm ưu thế.
- Trong lịch sử nói, tuy nhiên, nó đã bất ngờ bịmột đáng kể một phần của văn hóa Nhật Bản chính thống.
- Theo Nietzsche, điều này cực đoan sự thay đổi mang lại những điều cần thiết mà con người trởnên mạnh mẽ, đủ để chịu đựng sự vô nghĩa lớn nhất, cái chết của Thiên Chúa.Khá thú vị là ở Nhật Bản, có một học giả người chỉ trích bản quy phạm kỷ luật như Nietzsche đã làm: Motoori Norinaga, một nhà nghiêncứu của 'Koku-gaku', hay Nhật Bản nghiên cứu, trong thời kỳ Edo.
- Các công cụ thích hợp nhất để thể hiện này thế giới của sự nhạy cảm đã đượchiragana và phong cách văn học của waka.Các triết lý của Nietzsche và Norinaga đứng trái ngược với một khác.
- Ýtưởng của "mono-không biết-" là đề xuất của Norinaga liên kết với các giá trị như cổ điển như 'yugen "và" Wabi-Sabi', hai Trung ương chủđề trong dòng lịch sử văn hóa Nhật Bản.
- Tương lai của xã hội cạnh tranhCác chính sách quân sự và imperialization rằng Nhật Bản hiện đại đã chọn được trong thực tế khác với các giá trị thể hiện bằng chínhVăn hóa Nhật Bản.
- Thực tế là dường như nhu nhược và "yếu" phong cách văn hóa như manga, anime và thời trang có thể lấy lại được phổbiến có nghĩa là, nghịch lý, xã hội Nhật Bản là lấy của nó thực chấtphong cách văn hóa.
- để lại các giá trị tham lam theo định hướng củaxã hội cạnh tranh với các nước khác.Hiroshi SakuraiGiáo sư, Trường Nghiên cứu Quốc tế Tự doTiểu sửSinh ra tại Tokyo, sống ở YamanashiTốt nghiệp Đại học TokyoTrước khi đến SILS, giảng dạy tại Đại học Yamanashi, và trườngThương mại, Waseda Universtiy.ChínhLý thuyết xã hội học, đặc biệt là các lý thuyết của tổ chức tựCông trình lớnPhong cách sống và cơ cấu xã hội,Hệ thống của xã hội đương đại: Giải thích của Xã hội họcMột cuốn sách mới, Nguồn gốc của trật tự xã hội sẽ đượcBản dịch từ Tiếng Anh sang Tiếng ViệtĐiều gì là Jiyen các sư cố gắng để thể hiện trong bài thơ sau đây?Hãy để chúng tôi không đổ lỗi cho gió, bừa bãi,Đó là phân tán những bông hoa rất tàn nhẫn;Tôi nghĩ rằng đó là mong muốn riêng của họ để qua đi trước khi thời gian của họ đã đến.Jiyen các Monk Trong SUZUKI DT, Thiền và Văn hoá Nhật Bản Princeton:.
- 390.)Ngoài hoa anh đào, những ví dụ khác là có thẩm mỹ các đối tượng mà vô thường là một phần của vẻ đẹp của họ? mối quan hệ giữa thờigian và cái đẹp trong nghệ thuật phương Tây là gì? Làm thế nào để thể loại kịch, văn học phương Tây của "thảm kịch" giống hoặckhác với sự tập trung của Nhật Bản vào mono không có ý thức? Mono không có Aware: Đặc điểm thẩm mỹCác thể loại thẩm mỹ của mono không có nhận thức (物 の 哀れ), hoặc những cay đắng " vẻ đẹp của sự vật, "mô tả một độ nhạy trồng đếnkhông thể tránh khỏi tạm thời của thế giới.
- Tuy nhiên, từ việc giải thích của Motoori Norinaga mono không có ý thứcđã được đáng chú ý nhất có liên quan với văn bản văn học như Heian tòa án thơ (waka - thơ kiểu Trung Quốc tại Nhật Bản) và The Talecủa Murasaki Shikibu Genji do (khoảng 1010).
- Các truyền thống Phật giáo quan tâm đến vấn đề "cảm giác lo lắng" hay"đau khổ" (tiếng Phạn dukkha) trong khuôn mặt của sự vô thường của sự vật đã trở thành aestheticized tại Nhật Bản.
- Ví dụ, trà nổi tiếng không có chủ SenRikyū nắm bắt được thẩm mỹ của đơn giản là tâm của trà đạo: "nghệ thuật của cha yu-no-bao gồm trong không có gì khácnhưng trong nước sôi, pha trà, và nhấm nháp nó "(trích dẫn trong DT Suzuki, Zenvà Văn hóa Nhật Bản.
- Đó là trong trạng thái này củasolitariness là một là đưa trở lại để tự xác thực của một người và trở lại đối mặt với đầy đủ hơn hiện sinh (5) và kích thước của kinhnghiệm tôn giáo của con người.Hơn nữa, đó là triết lý quan trọng mà bản chất đại diện cho cơ bản nền tảng của sự tồn tại của con người, mà là để nói rằng nhữngloại truyền thống của Nhật Bản từ chối bất kỳ hình thức của văn hóa so với tính chất phân đôi.
- trong Yuriko SAITO, "Thẩm mỹ học Nhật Bản không hoàn hảo vàSuy "Tạp chí Thẩm mỹ học và Phê bình Nghệ thuật, 55:4, mùa thuNăm Trong khi Thần đạo là cơ sở cho tình yêu văn hóa Nhật Bản của thiên nhiên, kiên quyết đối đầu với sự vô thườngcủa Phật giáo đại diện cho một triết học phải đối mặt với những điều cam kết khi chúng được, hơn là làm thế nào họ nên được.
- Ví dụ chính: Núi và Mây Từ: JimagesNhiếp ảnhNhìn ra xa đủ,Ngoài tất cả hoa anh đàovà đỏ tươi cây phong,với những túp lều của cảngmờ dần trong hoàng hôn mùa thu.Fujiwara Teika William Lafleur, The Karma của từ: Phật giáo và nghệ thuật văn học trongThời trung cổ Nhật Bản.
- "Biểu tượng và Yūgen: Shunzei của sử dụng của Phật giáo Thiên Thai" (trang 80-107) trongWilliam Lafleur, The Karma của từ: Phật giáo và nghệ thuật văn học trongThời trung cổ Nhật Bản.
- Cụ thể hơn, đầu tiên nhân vật, Yu (幽)đề cập đến "Ness-vong" và "mờ", trong khi các gen nhân vật thứ hai (玄) đề cập đến "bóng tối" và "bóng tối."Yoshinori Onishi cho rằng khái niệm xuất hiện trong bốn yūgen các loại văn học khác nhau: (1) Thiền và Trung Quốc Daoist tác, (2)Trung Quốc thơ, (3) Waka (thơ kiểu Trung Quốc tại Nhật Bản), và (4) luận về thơ và không đóng (Onishi 9).
- Và sau đó, trong các luận quan trọng về Waka và không có, yūgen bắt đầu được sử dụng trong nhiều cách thức "lý thuyết" để biệnminh bản án, thẩm mỹ là một khái niệm quy phạm pháp luật (8) để phản ánh thuận và đánh giá công trình mang tính thẩm mỹ.Ngoài tiền tệ văn học của nó, yūgen cũng trở nên liên kết chặt chẽvới sơn inkwash Sumi-e.
- thiền định, trong khi trả về chuỗithứ hai đến cơ bản Phật giáo tập trung vào mujō (无常 "vô thường").Việc thực hành thiền tông Thiên Thai của shikan trở thành ống kính qua đó chất lượng yūgen điều đến để được bắt, theo William Lafleurtrong The Karma của từ: Phật giáo và nghệ thuật văn học trong thời Trung CổNhật Bản (Berkeley: Đại học California, 1983).
- Lafleur lập luận rằng những chân lý ThiênThai nhấn mạnh phụ thuộc lẫn nhau của tất cả mọi thứ chức năng như một lời khẳng định của "bất định về ý nghĩa." Như vậy, cái nhìn sâusắc này được sản xuất tăng đáng kể trong chiều sâu ý nghĩa và ý nghĩa (fukasa 深 さ) để được viết và được tìm thấy trong nghệ thuật.Nhật Bản là quốc gia có tính đồng nhất về sắc dân và văn hóa.
- Sắc dân nước ngoài đông nhất là Triều Tiên nhưng nhiều người Triều Tiên sinh trưởng tại Nhật Bản đã nói tiếng Nhật khôngkhác gìngười Nhật Bản cả.
- Sắc dânngoại quốc thứ hai là người Trung Hoa rồi về sau còn có một số dân lao động gồm người Philippines và người Thái.Theo Bộ Nội Vụ của Nhật Bản, dân số Nhật Bản vào cuối năm 2000 là người, đứng hàng thứ bảy sau Trung Quốc, ẤnĐộ, Hoa Kỳ, Indonesia, Brasil và Nga.
- Tuy thế, Nhật Bản vẫn có thể có dân số lên tới 129,5 triệu người vào năm 2010 rồi sau đó mới giảm bớt.Do dân số đông, mật độ dân số của Nhật Bản lên tới 327 người/km², ngang hàng với các nước có mật độ cao như Bỉ, Hà Lan và TriềuTiên.
- Tuổi thọ trung bình tại Nhật Bản là 81đối với phụ nữ và 75 với nam giới.Người Nhật Bản có nguồn gốc Mông Cổ, giống như người Triều Tiên và Trung Hoa.
- Có lẽ vào khoảng 10.000 năm về trước, sắc tộc gốcMông Cổ này đã di cư tới Nhật Bản là nơi có sẵn tộc người Ainu, một loại thổ dân gốc Caucase.
- Số người con trong gia đình cũng giảm từ 4,7 vàonăm 1947 xuống còn 1,5 vào năm 1991 vì việc làm nơi thành phố và do cuộc sống trong các căn nhà chung cư chỉ thích hợp với loại giađình trung bình là 2,9 người.Cùng với sự thay đổi về số người trong gia đình, nếp sống hiện nay của người Nhật Bản khác ngày trước do việc dùng các máy móc giadụng, do sự phổ biến các loại thực phẩm ăn liền và đông lạnh, các loại quần áo may sẵn và các phương tiện hàng ngày khác.
- Các tiến bộ về công bằng xã hội cũng làm mất đi tính kỳ thị về giai cấp, về quá trình gia đình, và đại đa số ngườiNhật Bản thuộc giai cấp trung lưu, căn cứ vào lợi tức của họ.Ngày nay mặc dù Nhật Bản đã là một quốc gia tân tiến nhưng trong xã hội Nhật, vai trò và các liên hệ nam nữ đã được ấn định rõràng.Thời xưa, Nhật Bản theo chế độ mẫu hệ, người phụ nữ có vai trò lớn hơn nam giới.
- Dù rằng tinh thần giải phóng phụ nữ đã được du nhập vào Nhật Bản từ cuối thế kỷ 19 nhưng hiện nay trong đờisống công cộng, người phụ nữ vẫn ở vị thế thấp hơn nam giới và bên ngoài xã hội, người nam vẫn giữ vai trò lớn hơn một chút.
- Nhưng nay Nhật Bản lại là nước có phụ nữ lấychồng rất muộn, thậm chí là sống độc thân mà không có chồng (Nhật Bản hiện nay là nước có phụ nữ lấy chồng rất ít và tỉ lệ sinh thấp nhấtChâu Á.
- Ngày nay, vị thế củangười phụ nữ đã được nâng lên nhiều trong xã hội, nhất là tư duy của lớp thanh niên trẻ - những người thường không có quan niêm phânbiệt và suy nghĩ bảo thủ, cổ hủ.Xã hội Nhật Bản có các nét đặc biệt về giao thiệp.
- Cũng như đối với nhiều người châu Á khác, người ngoại quốc tới Nhật Bản cầnphải bình tĩnh trước mọi điều không vừa ý, không nên nổi giận và luôn luôn nên nở nụ cười

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt