« Home « Kết quả tìm kiếm

Ứng dụng nền tảng Web 2.0 trong dạy học ngữ văn theo mô hình lớp học đảo ngược đáp ứng yêu cầu chương trình ngữ văn mới


Tóm tắt Xem thử

- THEO MÔ HÌNH LỚP HỌC ĐẢO NGƯỢC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN MỚI.
- Mô hình lớp học đảo ngược mới ra đời ở Mỹ khoảng hơn 10 năm nay, được áp dụng rộng rãi trong các trường học nhiều nước trên thế giới, đã và đang được quan tâm, thử nghiệm ở Việt Nam những năm gần đây.
- Đó là sự “đảo ngược” so với lớp học truyền thống về tiến trình, mục tiêu, cách thức dạy học, vai trò của người dạy và người học với một dụng ý và chiến lược sư phạm khoa học, hiện đại.
- Với sự phát triển của công nghệ thông tin, việc ứng dụng nền tảng web 2.0 để xây dựng lớp học trực tuyến đã hỗ trợ và phát huy rất nhiều ưu điểm vượt trội của lớp học đảo ngược..
- Dựa trên cơ sở lí luận về mô hình lớp học đảo ngược, nền tảng web 2.0 và các yêu cầu của chương trình Ngữ văn mới, bài viết này muốn đề xuất một quy trình dạy học Ngữ văn theo mô hình lớp học đảo ngược với sự hỗ trợ của nền tảng web 2.0, từ đó nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn đáp ứng yêu cầu của chương trình Ngữ văn mới trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0..
- Từ khóa: Lớp học đảo ngược.
- dạy học Ngữ văn.
- chương trình Ngữ văn mới;.
- Sự ban hành chính thức của Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn vào 12/2018 (cùng với Chương trình tổng thể và chương trình các môn học khác) là một chuyển động tích cực trong bước tiến phát triển đó.
- lớp học đảo ngược (MHLHĐN), nền tảng web 2.0 và các yêu cầu của chương trình Ngữ văn mới, chúng tôi muốn đề xuất một quy trình dạy học (DH) Ngữ văn theo MHLHĐN với sự hỗ trợ của nền tảng web 2.0, từ đó nâng cao chất lượng DH Ngữ văn đáp ứng yêu cầu của chương trình Ngữ văn mới trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0..
- Mô hình lớp học đảo ngược.
- Theo đó, LHĐN được diễn giải đơn giản là “các công việc thực hiện ở trong lớp học truyền thống (LHTT) thì bây giờ sẽ thực hiện ở ngoài lớp học và ngược lại” [3, tr.32].
- Tuy chưa đại diện một cách đầy đủ cho những gì các nhà nghiên cứu đang xây dựng về LHĐN, bởi định nghĩa này chỉ đơn giản là việc sắp xếp lại các hoạt động ở trên lớp và ở nhà, nhưng nó đã nói đến vấn đề cơ bản của khái niệm: đó là sự đảo ngược cách tổ chức dạy học theo truyền thống.
- Có thể mô tả cụ thể hơn sự khác biệt về hoạt động DH giữa LHTT và LHĐN như sau:.
- Theo MHLHĐN, giờ học ở lớp học sinh (HS) sẽ dành cho các hoạt động hợp tác giúp củng cố thêm các khái niệm đã tìm hiểu thông qua việc xem các bài giảng ở nhà qua mạng.
- Thang đo tư duy Bloom (2001) là cơ sở khoa học của phương pháp sử dụng mô hình lớp học đảo ngược.
- Do đó, HS có thể tự xử lý một mình tại nhà, còn việc áp dụng, phân tích và sáng tạo dựa trên kiến thức đã có là hoạt động đòi hỏi mức tư duy đào sâu hơn và cần được thực hiện tại lớp, khi có thầy cô và bạn bè cùng thảo luận, chia sẻ, hỗ trợ..
- Như vậy, với việc sử dụng công nghệ thông tin (CNTT) để hỗ trợ giảng dạy nhằm thúc đẩy quá trình học tập ở bên ngoài lớp học, một mặt MHLHĐN phát triển năng lực tự học của HS, mặt khác nó tạo cơ hội nhiều hơn cho các hoạt động thảo luận, tương tác, hỗ trợ trên lớp giữa GV-HS, HS-HS, từ đó dịch chuyển nhiệm vụ học tập sang các bậc cao theo thang đo Bloom.
- Bên cạnh đó, do môi trường học tập linh hoạt, mang tính tương tác cao, nên mô hình này tạo cơ hội cho việc cá nhân hóa quá trình học tập (về khả năng, thời gian, thái độ, hành vi và sở thích học tập của mỗi cá nhân người học), từ đó tạo ra môi trường học thực (deep learning), học có ý nghĩa (meaningful learning), chủ động, tích cực hơn cho HS..
- Nền tảng web 2.0.
- Phần mềm có thể chạy trên nhiều thiết bị.
- Những yêu cầu của chương trình Ngữ văn mới.
- Ngày Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chính thức ban hành “Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn” [2].
- Chương trình Ngữ văn mới này được biên soạn theo yêu cầu “đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo”, đáp ứng yêu cầu hình thành và phát triển cho HS những phẩm chất và năng lực cần thiết của người công dân trong thời đại toàn cầu hoá và cách mạng công nghiệp 4.0 như Chương trình tổng thể [1] đã đặt ra.
- Theo đó, ngoài việc giúp HS phát triển hai năng lực đặc thù của môn học là năng lực ngôn ngữ và văn học, môn Ngữ văn phải góp phần giúp HS phát triển các năng lực chung: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.
- Chính vì thế, chương trình Ngữ văn mới đã được xây dựng theo hướng mở, thể hiện ở việc không quy định chi tiết về nội dung DH mà chỉ quy định những yêu cầu cần đạt về đọc, viết, nói và nghe cho mỗi lớp.
- phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập và vận dụng kiến thức, kĩ năng của học sinh”.
- chương trình Ngữ văn mới đã chỉ ra những yêu cầu cụ thể trong việc tổ chức DH.
- Về đánh giá kết quả giáo dục, chương trình Ngữ văn mới hướng tới mục tiêu “nhằm cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, có giá trị về mức độ đáp ứng yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực và những tiến bộ của học sinh trong suốt quá trình học tập môn học, để hướng dẫn hoạt động học tập, điều chỉnh các hoạt động dạy học, quản lí và phát triển chương trình, bảo đảm sự tiến bộ của từng học sinh và nâng cao chất lượng giáo dục” [2,tr.85]..
- Như vậy, phân tích chương trình Ngữ văn mới trên các mặt mục tiêu, nội dung, phương pháp, kiểm tra - đánh giá, có thể thấy yêu cầu bao trùm lên tất cả các khâu của quá trình DH Ngữ văn là tập trung vào việc hình thành và phát triển năng lực (chung và đặc thù) cho HS, với định hướng DH phân hóa, cá nhân hóa, tích cực hóa hoạt động học tập của HS.
- Với những ưu điểm đã phân tích ở trên, việc áp dụng MHLHĐN với sự hỗ trợ của nền tảng web 2.0 vào DH Ngữ văn là một hướng đi đúng đắn, khả quan đáp ứng các yêu cầu của chương trình Ngữ văn mới..
- Tổ chức dạy học Ngữ văn theo mô hình lớp học đảo ngược với sự hỗ trợ của nền tảng web 2.0 MHLHĐN mà chúng tôi xây dựng sẽ bao gồm hai phần chính: các hoạt động học tập trực tuyến bên ngoài lớp học và các hoạt động học tập tương tác trực tiếp trên lớp.
- Vì thế trong phần này chúng tôi sẽ đề cập hai nội dung chính: thiết kế lớp học trực tuyến và thiết kế quy trình DH..
- Thiết kế lớp học trực tuyến.
- Hiện nay có rất nhiều phần mềm ứng dụng chạy trên nền tảng web 2.0 có thể giúp GV thiết kế các lớp học trực tuyến (Moodle, Edmodo.
- Đây là công cụ tích hợp các dịch vụ của Google (Gmail, Google Drive, Google Docs), hoàn toàn miễn phí, rất tiện ích, hiệu quả để tạo và quản lí các lớp học trực tuyến..
- Về cơ bản, Google Classroom giúp tổ chức một lớp học thông qua sự hỗ trợ của 3 tính năng quan trọng: Giao tiếp, Giao bài tập và Lưu trữ.
- cung cấp các tài liệu học tập.
- Đối với người học, lớp học trực tuyến sẽ tạo thông báo nhắc nhở về thời hạn nộp bài, giúp HS tự học mọi lúc mọi nơi.
- Ứng dụng này đã mở ra một phương pháp học tập mới cho HS ngay trên các thiết bị di động.
- Trước hết, GV cần tạo một lớp học trực tuyến bằng cách truy cập vào website https://.
- phải phía trên, chọn “Tạo lớp học”.
- Sau đó mời HS tham gia lớp học bằng cách gửi mã lớp học (bên trái phía trên giao diện chính của lớp học) cho HS..
- Giao diện chính của lớp học trực tuyến trên Google Classroom..
- Hướng dẫn nhiệm vụ học tập.
- Đây là những chỉ dẫn về trình tự, cách thức thực hiện, mục tiêu cần đạt trong mỗi một nhiệm vụ học tập.
- Đây là công cụ quan trọng nhất mà GV cần đầu tư thiết kế để HS tự học tại nhà.
- Về nội dung: là những kiến thức cơ bản, cốt lõi nhất của bài học sao cho khi xem xong bài giảng, học sinh có thể giải quyết được ít nhất 70% các nhiệm vụ nêu ra trong phiếu học tập.
- Có thể tham khảo một video bài giảng về Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa (Ngữ văn 10, tập 1) của chúng tôi tại: https://www.youtube..
- Như trên đã đề cập, chương trình Ngữ văn mới chỉ quy định một số văn bản bắt buộc, còn lại GV có thể chủ động, linh hoạt lựa chọn thêm các ngữ liệu khác miễn đáp ứng các yêu cầu giáo dục.
- Ngoài ra với việc xây dựng những tài liệu không bắt buộc trên lớp học trực tuyến sẽ giúp GV thực hiện việc DH phân hóa, cá nhân hóa những em có năng khiếu hoặc có thiên hướng nghề nghiệp gắn bó với môn Ngữ văn sẽ có điều kiện đi sâu tìm hiểu lĩnh vực thế mạnh của mình..
- Có 2 loại bài KT ứng với 2 thời điểm làm bài của HS: bài KT trước khi đến lớp, chủ yếu KT kiến thức cơ bản HS tự học được qua SGK, video bài giảng và bài KT sau giờ học trên lớp, KT tổng hợp kiến thức với mức độ từ cơ bản đến nâng cao mà HS thu nhận được sau quá trình học trên lớp và ở nhà (trong đó có cả việc tự đọc các tài liệu tham khảo thêm mà GV cung cấp trên mạng).
- Trên lớp học trực tuyến, GV có thể xem kết quả bài làm của từng em và thống kê kết quả của cả lớp dưới dạng biểu đồ, về điểm số hoặc số lượng HS trả lời đúng sai từng câu.
- Đây là những dữ liệu giúp GV và cả HS đánh giá được kết quả học tập của người học, từ đó có những kế hoạch điều chỉnh DH hợp lí..
- Trước giờ học trên lớp: GV sẽ tạo chủ đề “Các câu hỏi thắc mắc/ vấn đề chưa hiểu khi chuẩn bị bài” và HS sẽ đưa các câu hỏi/ vấn đề của mình trong diễn đàn đó.
- vấn đề này sẽ được giải đáp, thảo luận trong giờ học trên lớp..
- Sau giờ học trên lớp: HS sẽ chủ động đăng các thắc mắc/ vấn đề chưa rõ hoặc muốn tìm hiểu sâu hơn lên chủ đề mình tự tạo, GV và các HS trong lớp sẽ trực tiếp phản hồi.
- Diễn đàn trên lớp học trực tuyến (bên cạnh kết quả làm bài KT TNKQ) trước giờ học trên lớp là một cơ sở để GV lựa chọn các nội dung DH trên lớp cho phù hợp với trình độ, nhu cầu và đặc điểm của HS.
- Từ đó các HS có thể học hỏi lẫn nhau, góp phần nâng cao chất lượng của việc tự học, tự nghiên cứu tại nhà trong MHLHĐN..
- Thiết kế quy trình DH Ngữ văn theo mô hình lớp học đảo ngược với sự hỗ trợ của nền tảng web 2.0.
- Sau khi đã xây dựng được lớp học trực tuyến, quy trình DH được chúng tôi xây dựng gồm 3 giai đoạn sau: trước giờ học trên lớp, giờ DH trên lớp và sau giờ học trên lớp..
- Trước giờ học trên lớp.
- Đây là giai đoạn tự học ở nhà của HS trên lớp học trực tuyến.
- Mỗi HS được cấp một tài khoản học tập riêng để GV có thể quản lí việc học online của họ.
- Thông thường HS sẽ có 4 nhiệm vụ chính: Nghiên cứu BH trong SGK, Học bài giảng qua video trên lớp học trực tuyến, Làm bài KT TNKQ kiến thức cơ bản tự học, Đặt câu hỏi, nêu thắc mắc trong quá trình tự học trên diễn đàn của lớp..
- Mỗi nhiệm vụ sẽ có những chỉ dẫn rất cụ thể trong mục “Hướng dẫn - nhiệm vụ học tập” trên lớp học trực tuyến như chúng tôi đã nêu ở trên..
- Bước 2: HS thực hiện các nhiệm vụ tự học.
- Với công cụ học tập là SGK, video bài giảng và tài liệu tham khảo được GV đăng lên lớp học trực tuyến, HS sẽ tự triển khai các hoạt động học tập theo chỉ dẫn và phù hợp với thời gian, không gian, điều kiện cơ sở vật chất của mình (học qua máy tính/ ipad hoặc điện thoại thông minh có kết nối mạng).
- Việc tự học trước giờ lên lớp kết thúc với hoạt động HS đăng các câu hỏi thắc mắc lên chủ đề “Trao đổi - thảo luận” do GV tạo ra..
- Bước 3: GV kiểm tra kết quả và nhắc nhở (nếu cần) việc tự học của HS trước khi đến lớp.
- Nếu đến thời hạn đã giao ước mà HS nào chưa hoàn thành việc tự học, GV có thể nhắc nhở qua các kênh liên lạc (email/ group lớp trên facebook/ chat box trên lớp học trực tuyến.
- Với các câu hỏi của HS trên diễn đàn, GV sẽ ghi chép lại, khái quát thành các vấn đề để cả lớp cùng thảo luận trong giờ học trên lớp buổi hôm sau.
- Việc nắm bắt những vấn đề mà HS chưa rõ thông qua diễn đàn, kết quả bài KT trắc nghiệm trên web sẽ giúp GV có thời gian chuẩn bị tốt hơn các nội dung DH trên lớp.
- Giờ DH trên lớp.
- Như trên đã nói, giờ DH trên lớp trong MHLHĐN hướng tới các bậc cao trong thang đo nhận thức Bloom (phân tích, đánh giá, sáng tạo) với sự tương tác đa chiều: GV với HS, HS với HS và các phương pháp DH tích cực được sử dụng triệt để.
- Muốn thế, giờ DH trên lớp cần thực hiện theo các bước sau:.
- Trước khi đến lớp, HS đã có một quá trình tự học các kiến thức cơ bản của BH trên lớp học trực tuyến.
- Mặt khác, có thể có những em chưa hoàn thành nhiệm vụ mà GV giao hoặc chưa học tập tích cực.
- Do đó, trước khi tổ chức các hoạt động thảo luận, GV phải hệ thống hóa lại kiến thức cơ bản của bài, với sự hỗ trợ của powerpoint và các thiết bị công nghệ, sử dụng bảng biểu, sơ đồ tư duy.
- Mặc dù đây không phải là khâu trọng tâm của giờ học trên lớp nhưng lại giữ vai trò nền tảng để tiến hành các hoạt động thảo luận tiếp theo..
- Bước 3: GV tổ chức các hoạt động thảo luận cho HS.
- Đây là khâu trọng tâm của giờ học trên lớp theo MHLHĐN, thể hiện rõ quan điểm DH lấy HS làm trung tâm.
- Nội dung thảo luận là những vấn đề do GV thiết kế, nhưng cũng có thể là những vấn đề do chính HS đặt ra trên diễn đàn.
- Về hình thức, GV có thể tổ chức thảo luận cả lớp, theo các nhóm.
- Những vấn đề được bàn luận đến sẽ giải đáp những thắc mắc trong quá trình tự học ở nhà của HS, đồng thời giúp BH được đào sâu, mở rộng, nâng cao, gây hứng thú, tạo động lực học tập vì nó mang tính “thách thức”.
- Hoạt động thảo luận có thể sẽ “bùng nổ” rất nhiều ý kiến khác nhau, hoặc HS chưa thể đưa ra những lí giải tận cùng về một vấn đề, vì vậy sau bước 3, GV cần tổng kết, chốt lại những vấn đề quan trọng, đưa ra những phân tích hợp lí nhất để định hướng tư duy của HS.
- Giờ học trên lớp sẽ kết thúc với hoạt động này..
- Những yêu cầu, hướng dẫn chi tiết HS sẽ tìm đọc trong mục Hướng dẫn - nhiệm vụ học tập ở trang web học tập, trên lớp GV chỉ nhắc những nhiệm vụ chính và thời hạn hoàn thành..
- Bên cạnh đó, HS sẽ phải bắt đầu thực hiện nhiệm vụ tự học trước bài mới tiếp theo (nếu GV tiếp tục DH bài này theo MHLHĐN)..
- Sau giờ học trên lớp.
- HS sẽ tiếp tục tự học để củng cố, mở rộng kiến thức về BH trên lớp học trực tuyến, với các bước tương tự như trước giờ học trên lớp (đọc hướng dẫn nhiệm vụ học tập - xem các tài liệu cần thiết - làm bài KT - nêu câu hỏi thắc mắc lên diễn đàn nếu có).
- Các em có thể xem lại powerpoint (GV up lên mục Tài liệu sau giờ học trên lớp) và các tài liệu liên quan để làm bài KT TNKQ sau giờ học trên lớp (bài KT này là bắt buộc).
- Bên cạnh đó, những HS có niềm yêu thích môn Văn có thể xem các tài liệu tham khảo thêm.
- Trong quá trình tự học này có vướng mắc, câu hỏi gì HS có thể đăng trên diễn đàn - GV và các bạn khác trong lớp sẽ phản hồi trực tiếp tại chủ đề đó trong khuôn khổ cho phép.
- Như vậy, với lớp học trực tuyến trong MHLHĐN, HS sẽ phát triển được năng lực tự học.
- Qua một quá trình tự học dưới sự hướng dẫn của GV, trong tương lai, các em hoàn toàn có thể tiếp tục tự đọc hiểu các văn bản cùng thể loại ngoài SGK.
- MHLHĐN với sự hỗ trợ của nền tảng web 2.0 sẽ mở ra những cơ hội học tập linh hoạt, tích cực, hiệu quả, cá nhân hóa cho người học.
- Ứng dụng mô hình này vào DH Ngữ văn sẽ giúp HS được trải nghiệm phong phú các hình thức học tập khác nhau, tăng hứng thú và phát triển được các năng lực chung cũng như đặc thù.
- Mặc dù GV sẽ tốn công sức và thời gian hơn trong khâu thiết kế học liệu, kịch bản DH, nhưng nếu được triển khai rộng rãi, đây sẽ là một mô hình DH hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu của chương trình Ngữ văn mới, phù hợp với thời đại công nghệ số ngày nay..
- Lê Thị Phượng, Bùi Phương Anh (2017), Dạy học theo mô hình lớp học đảo ngược nhằm phát triển năng lực tự học cho học sinh, National academy of education management, Journal of Education Management, Vol

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt