« Home « Kết quả tìm kiếm

Chiến lược nhân lực cho doanh nghiệp Việt Nam trước nền công nghiệp 4.0


Tóm tắt Xem thử

- Điều này buộc các doanh nghiệp Việt Nam cần thay đổi tư duy để có thể cạnh tranh với các quốc gia khác, thay vì mô hình phát triển kinh tế dựa vào tài nguyên, bằng cách sử dụng lao động giá rẻ như trước đây sang nền kinh tế tri thức, cần chú trọng đổi mới công nghệ, quản trị và nhân lực đáp ứng thời kỳ công nghiệp 4.0.
- Với thực tế, năng suất lao động còn thấp, trình độ người lao động còn chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới của các doanh nghiệp như hiện nay, vấn đề về chiến lược phát triển chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao là vô cùng cần thiết cho các doanh nghiệp hiện nay.
- TÁC ĐỘNG CỦA CÔNG NGHIỆP 4.0 ĐẾN DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 2.1.1.
- Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đến doanh nghiệp Việt Nam.
- Về cơ bản cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ là nền tảng để kinh tế chuyển đổi mạnh mẽ từ mô hình dựa vào tài nguyên, lao động chi phí thấp sang kinh tế tri thức.
- Khi đó giá trị sản phẩm được quyết định ở hàm lượng chất xám, tạo nên tốc độ tăng trưởng GDP ở cấp số nhân, đây là điều hoàn toàn khác biệt với cách thức tăng trưởng truyền thống - dựa trên khai thác tài nguyên, lao động giá rẻ.
- Nếu các doanh nghiệp không chủ động thay đổi tư duy để có biện pháp thích ứng dần thì có thể là nguy cơ trở thành nơi nhận chuyển dịch công nghệ thấp, lạc hậu, chỉ tuyển dụng lao động tay nghề thấp, thu nhập thấp..
- Trong tương lai, khi các nhà máy thông minh ra đời với sự hoạt động của các chú robot thay những người lao động thường ngày, thì với các doanh nghiệp nguồn nhân lực chất lượng cao hay chính là năng lực (chứ không phải nguồn vốn), sẽ trở thành nhân tố cốt lõi của nền sản xuất.
- Điều này khiến nhu cầu sử dụng lao động có chất lượng tăng cao, đòi hỏi các nhà quản lý cũng phải cải thiện kỹ năng và năng lực..
- Tác động đến đội ngũ lao động.
- Nền công nghiệp 4.0 sẽ tạo ra những thay đổi lớn về cung - cầu lao động trên thế giới..
- Tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới diễn ra vào năm 2016 tại Thụy Sĩ, các nhà kinh tế và khoa học đã cảnh báo, trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, thị trường lao động sẽ bị thách thức nghiêm trọng giữa cung và cầu lao động cũng như cơ cấu lao động.
- tự động hóa cao và có tính sáng tạo, đòi hỏi người lao động phải thích ứng nhanh với sự thay đổi của sản xuất nếu không sẽ bị dư thừa, bị thất nghiệp..
- Những ưu thế về lực lượng lao động trẻ dồi dào và chi phí thấp của các nước đang phát triển như Việt Nam sẽ không còn là thế mạnh.
- Đây là thách thức không nhỏ trong bối cảnh lao động Việt Nam đang trong tình trạng trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động còn thấp, năng suất lao động thấp, tay nghề và các kỹ năng mềm khác còn yếu....
- Đặc biệt với các doanh nghiệp Việt Nam cần nhìn thẳng vào thực tế, khi tình trạng đang khá phổ biến là lao động độ tuổi 35 đã bị sa thải để thấy nhiều doanh nghiệp đang hoạt động dựa trên lao động phổ thông, chỉ cần sức khỏe chứ không phải tay nghề..
- Cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ đe dọa việc làm của những lao động trình độ thấp, mà cả với những nhân công có tay nghề, chất lượng cao cũng sẽ bị ảnh hưởng.
- Trong 20 năm qua, tổng số lao động Việt Nam đã tăng thêm khoảng 19 triệu người, từ mức 35 triệu người năm 1996 lên 54 triệu người năm 2016.
- Tuy nhiên, khi máy móc làm thay con người, sự dôi dư nguồn nhân lực sẽ trở thành lực cản của quá trình phát triển trong tương lai kể cả những lao động có tay nghề cũng có thể được thay thế bởi trí tuệ nhân tạo….
- Tuy nhiên, trí tuệ nhân tạo không thể thay thế được việc đưa ra quyết định về chiến lược của doanh nghiệp, xây dựng các kế hoạch sản xuất kinh doanh, hay có thể đứng ra hòa giải khi có tranh chấp, động viên tinh thần, quan tâm tâm suy nghĩ của người lao động…Như vậy, con người vẫn còn chỗ đứng trong nhiều lĩnh vực cụ thể.
- Và thực tế, cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ không ngay lập tức ảnh hưởng đến công ăn việc làm của người lao động các ngành nghề.
- Với tư cách là tiềm năng lao động của mỗi vùng, miền hay quốc gia thì nguồn nhân lực là tài nguyên cơ bản nhất.
- Số lượng nguồn nhân lực chính là lực lượng lao động và khả năng cung cấp lực lư- ợng lao động được xác định dựa trên quy mô dân số, cơ cấu tuổi giới tính, sự phân bố dân cư theo khu vực và lãnh thổ.
- Thực trạng chất lƣợng nhân lực trong các doanh nghiệp hiện nay.
- Theo Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam phân tích Việt Nam đang ở thời kỳ “dư lợi dân số” hay “dân số vàng”, với hơn 50% dân số trong độ tuổi lao động.
- Thống kê cho thấy quy mô lực lượng lao động quý IV-2015 đạt 54,59 triệu người..
- Nguồn lao động trẻ dồi dào sẽ là lợi thế lớn của Việt Nam, bởi đây là lực.
- Đặc biệt về vốn nhân lực của mỗi người lao động còn hạn chế thể hiện ở trình độ chuyên môn nghề nghiệp, kỹ năng lao động, thể lực và văn hoá lao động công nghiệp còn thấp.
- Chính vì chất lượng vốn nhân lực của lao động trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay còn nhiều điểm yếu nên hầu hết lực lượng lao động còn hạn chế về ý thức, tác phong công nghiệp, thể lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực hành nghề chưa đáp ứng tốt nhu cầu nhân lực của người sử dụng lao động nên còn một tỷ lệ đáng kể lao động qua đào tạo không tìm kiếm được việc làm thích hợp hoặc làm việc không đúng với trình độ và nghề được đào tạo.
- Hoặc nếu có theo làm việc tại các doanh nghiệp trong và ngoài nước thì yếu tố thể lực và trí lực của người lao động cũng chưa thực sự đáp ứng yêu cầu công việc nên năng suất lao động chưa cao.
- Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã chỉ ra rằng tính đến năm 2016, nước ta chỉ có khoảng gần 20% lao động được đào tạo bài bản, đa số không có đủ chất lượng chuyên môn, kỹ năng để đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của thị trường.
- Hiện tại, nguồn lực con người ở nước ta, bên cạnh những ưu thế như lực lượng lao động dồi dào, con người Việt Nam cần cù, chịu khó…thì những hạn chế không phải nhỏ, đặc biệt về vốn nhân lực trong mỗi con người lao động còn hạn chế ở trình độ chuyên môn nghề nghiệp, kỹ năng lao động, thể lực và văn hoá lao động công nghiệp.
- Chính vì vốn nhân lực của nguồn lao động Việt Nam còn nhiều điểm yếu nên hầu hết lực lượng lao động còn hạn chế về ý thức, tác phong công nghiệp, thể lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực hành nghề chưa đáp ứng tốt nhu cầu nhân lực của người sử dụng lao động nên còn một tỷ lệ đáng kể lao động qua đào tạo không tìm kiếm được việc làm thích hợp hoặc làm việc không đúng với trình độ và nghề được đào tạo..
- Hoặc nếu có theo làm việc tại các doanh nghiệp trong và ngoài nước thì yếu tố thể lực và trí lực của người lao động cũng chưa thực sự đáp ứng yêu cầu công việc nên năng suất lao động chưa cao..
- Ngân hàng Thế giới (WB) cũng đánh giá, Việt Nam đang rất thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao.
- Phần lớn người sử dụng lao động nói rằng tuyển dụng lao động là công việc khó khăn vì các ứng viên không có kỹ năng phù hợp.
- 5,59 và 4,94...Do trình độ phát triển không đồng đều, nên hiện nay lao động có tay nghề và kỹ năng cao trong khối ASEAN chủ yếu di chuyển vào thị trường Xin-ga-po, Ma-lai-xi-a và Thái-lan.
- Còn lại hầu hết các lao động di chuyển trong phạm vi ASEAN là lao động trình độ kỹ năng thấp hoặc không có kỹ năng..
- Ngoài ra, cấu trúc nền kinh tế Việt Nam vẫn còn nặng về nông nghiệp, nên ảnh hưởng đến việc tạo ra thói quen, tác phong công nghiệp cho người lao động.
- Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong giai đoạn mặc dù lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp có giảm, nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất.
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp và cơ cấu bất hợp lý là một trong những lý do dẫn đến năng suất lao động thấp.
- Theo đánh giá của ILO công bố trong năm 2014, năng suất của lao động Việt Nam thuộc nhóm thấp ở châu Á - Thái Bình Dương và ở ASEAN: Chỉ bằng 1/15 so với Xin-ga-po.
- bằng 1/5 Ma-lai-xi-a và 2/5 Thái-lan, chưa kể so sánh với năng suất lao động của Nhật Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, Ấn Độ, Niu Di-lân… là những đối tác đã có các hiệp định quan trọng với ASEAN.
- Tính đến năm 2016, chúng ta có thể so sánh năng suất lao động của Việt Nam với năng suất lao động ở một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á qua số liệu của Tổng cục Thống kê, để thấy được chất lượng nhân lực của Việt Nam so với một số nước trong khu vực:.
- Bảng 1: N ng suất lao động xã hội một số nƣớc trong khu vực n m 2016.
- Để có thể so sánh rõ hơn giữa năng suất lao động xã hội của Việt Nam với lao động một số nước trong khu vực, từ bảng số liệu trên, tác giả mô tả qua hình dưới với các cột số liệu biểu hiện cho năng suất lao động xã hội tính theo đơn vị USD của một số nước năm 2016:.
- (Nguồn: Tác giả) Hình 1: N ng suất lao động xã hội một số nƣớc trong khu vực n m 2016 Qua số liệu của hai bảng và hình trên cho thấy năng suất lao động xã hội của toàn nền kinh tế Việt Nam năm 2016 theo giá hiện hành ước tính đạt 84,5 triệu đồng/người lao động (tương đương khoảng 3.853 USD/người lao động), chỉ bằng 4,4% của Singapore.
- Việt Nam.
- Và nếu so sánh tương quan năng suất lao động và giá nhân công một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á sẽ thấy lao động giá rẻ không còn là một lợi thế của Việt Nam mà nếu không cải thiện được tình trạng trên, chúng ta khó có khả năng bắt nhịp vào công cuộc cách mạng 4.0..
- Không chỉ thế, năng suất sáng tạo của nguồn nhân lực ở trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay cũng không cao.
- Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đưa ra bảng xếp hạng chỉ số năng suất sáng tạo năm 2014 của lao động ở 24 nước châu Á, trong đó Việt Nam xếp thứ 16/24, thậm chí thấp hơn cả Lào và Indonesia..
- Để làm được việc trong các doanh nghiệp hiện nay, ngoài yêu cầu về chuyên môn, trình độ, tay nghề, kỹ thuật, cũng đòi hỏi người lao động phải có được khá nhiều các kỹ năng mềm khác để linh hoạt ứng phó kịp thời với xu thế tất yếu của hoạt động sản xuất kinh doanh trong thời đại công nghiệp hóa hiện đại hóa ngày nay.
- Mặc dù nguồn lao động Việt Nam là dồi dào, song để có thể có được công việc phù hợp và tồn tại được lâu dài trong doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp của lao động Việt Nam hiện nay lại không cao..
- Kết quả khảo sát các chủ sử dụng lao động tại 10 quốc gia ASEAN do Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thực hiện cũng cho thấy, doanh nghiệp trong khối ASEAN hiện đang rất lo ngại về tình hình thiếu hụt lực lượng lao động có tay nghề và kỹ năng.
- gần 50% chủ sử dụng lao động trong cuộc khảo sát cho biết, người lao động tốt nghiệp phổ thông không có được kỹ năng họ cần.
- Ngoài ra các kỹ năng giải quyết vấn đề, lãnh đạo và giao tiếp với cộng đồng vẫn chưa được phổ biến và trang bị cho người lao động.
- Đa số người lao động Việt Nam hiện nay chưa hiểu biết nhiều về luật lao động công nghiệp, về tác phong làm việc cũng như giờ giấc và cử chỉ thái độ trong quá trình làm việc.
- Tay nghề chưa cao, kỹ năng mềm còn kém đã là rào cản làm cho đại đa số người lao động của Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp trong và ngoài nước, điều này cũng đồng nghĩa với việc tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam còn khá phổ biến..
- Theo số liệu của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, tính đến quý IV-2015, cơ cấu trình độ của nhân lực lao động Việt Nam là: 01 đại học trở lên/ 0,32 cao đẳng/ 0,61 trung cấp/.
- Trong khi đó, theo quy luật của thị trường lao động, những người lao động trực tiếp (trình độ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng) phải nhiều hơn rất nhiều lần so với lao động gián tiếp (trình độ đại học).
- Tính đến quý IV-2016, cả nước có 1.110.000 người trong độ tuổi lao động thất nghiệp, trong đó có 471.000 người có chuyên môn kỹ thuật (chiếm 42,43.
- Riêng tại 64 trung tâm dịch vụ việc làm do ngành Lao động - Thương binh và Xã hội đã quản lý tổ chức được 336 phiên giao dịch việc làm với 780.000 lượt người được tư vấn, giới thiệu việc làm, nhưng mới có 242.000 lượt người nhận được việc làm..
- Kết quả này cho thấy chất lượng nguồn nhân lực của chúng ta chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp, đồng thời cũng phản ánh lao động Việt Nam hiện nay không chỉ yếu tay nghề mà cả các kỹ năng mềm khác.
- Với những mặt yếu kém trên, người lao động Việt Nam cần phải khắc phục mới có thể cạnh tranh với các nguồn nhân lực quốc tế..
- Với cuộc cách mạng công nghệ 4.0 và xu thế hội nhập sâu rộng, càng ngày càng có nhiều hiệp định hợp tác quốc tế, mở ra những cơ hội mới cho người lao động trên thế giới, sẽ không còn bị phân hóa, vùng lãnh thổ.
- Vì thế, năng lực cạnh tranh yếu kém của lao động Việt Nam sẽ tạo.
- điều kiện cho lao động nước ngoài gia nhập thị trường trong nước dễ dàng hơn vì họ sỡ hửu những tố chất vượt trội về tiêu chuẩn, trình độ, kỹ năng nghề nghiệp.
- Với thị trường mở như vậy, nếu người lao động Việt Nam không thích ứng được bằng cách hoàn thiện mình về kiến thức, tay nghề, trình độ ngoại ngữ thì sẽ không có cơ hội vươn ra tầm khu vực, thậm chí, còn có thể thua ngay trên sân nhà..
- Giao cho một số cơ quan Nhà nước cùng với các tổ chức xã hội nghề nghiệp nhanh chóng xây dựng các cơ sở đánh giá và kiểm định chất lượng lao động qua đào tạo, cấp giấy phép hành nghề, đồng thời bắt buộc các doanh nghiệp phải tuyển lao động có giấy phép hành nghề.
- Như vậy có thể nói, chiến lược phát triển nguồn nhân lực phải bám rất sát chiến lược phát triển kinh tế, tạo ra cơ cấu lao động phải hợp lý.
- Đầu tiên là tăng cường đầu tư phát triển nguồn nhân lực gắn với chiến lược phát triển sản xuất, kinh doanh các sản phẩm có hàm lượng tri thức, giá trị gia tăng cao thay vì các sản phẩm, các ngành sản xuất thâm dụng lao động.
- Nếu chậm trễ trong đào tạo nhân sự phù hợp, nhiều nhà máy nước ngoài sẽ có thể chuyển đến bất cứ nơi nào tận dụng được lợi thế công nghệ robot và khi ấy lao động giá rẻ sẽ không còn giá trị..
- Hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động.
- Khi các ngành sản xuất chính sẽ sử dụng công nghệ sản xuất tự động hóa ngày càng cao, nhà nước cần chú trọng phát triển công nghiệp phụ trợ, khi đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ thu hút phần lớn lao động hỗ trợ cho các ngành sản xuất chính..
- Đối với doanh nghiệp.
- Nhưng để đưa vào hoạt động ngay là rất khó nếu thiếu lực lượng lao động chất lượng cao.
- Sau đó, chủ động liên hệ và phối kết hợp với các cơ sở đào tạo nghề, các trường đại học để đặt hàng số lượng lao động cho từng vị trí công việc của doanh nghiệp mình, tránh tình trạng tuyển lao động xong lại phải đầu tư đào tạo lại hoặc tuyển lao động nhưng không đáp ứng được yêu cầu công việc..
- Tập trung đào tạo phát triển vốn nhân lực.
- Phát triển vốn nhân lực nghĩa là sự gia tăng tích lũy kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm qua quá trình học tập, rèn luyện và lao động qua đó tăng khả năng thực hiện công việc, năng suất và hiệu quả lao động.
- Do đó, thể lực là một trong nhân tố nền tảng để giúp con người tiếp thu học hỏi, từ đó tích lũy kiến thức để phát triển vốn nhân lực của mỗi người, liên quan chặt chẽ đến khả năng lao động của con người..
- Qua điều tra xã hội học cho thấy, người Việt Nam trong lứa tuổi lao động (từ 17 đến 55 tuổi) có thể lực thuộc loại trung bình thấp trên thế giới.
- Vì vậy, để góp phần phát triển vốn nhân lực cho lực lượng lao động của chúng ta là phải tăng thể lực, bao gồm: cải thiện chế độ dinh dưỡng, tăng chiều cao, cân nặng, tăng sức khoẻ, tăng khả năng làm việc.
- Từ đó cải thiện được sức lực, tạo điều kiện cho người lao động Việt Nam có tầm vóc to cao hơn để có thể đảm nhận đa dạng công việc hơn cũng như đáp ứng được yêu cầu làm việc khắt khe hơn của các doanh nghiệp trong thời đại công nghiệp 4.0.
- Hơn nữa khi cải thiện được thể lực cũng là tiền đề để người lao động tiếp thu được kiến thức, học hỏi kinh nghiệm, tăng cường kỹ năng…gia tăng trí lực..
- Và để thực hiện việc nâng cao trí lực, phát triển vốn nhân lực, cần có nhóm giải pháp liên quan đến đầu tư hoàn thiện giáo dục đào tạo cho người lao động..
- Tâm lực: là đạo đức, tác phong, tinh thần– ý thức trong lao động như: tác phong công nghiệp (khẩn trương, đúng giờ.
- Cuộc cách mạng 4.0 sẽ tạo ra những bước đột phá về năng suất lao động và phát triển nhân lực chất lượng cao, các doanh nghiệp sẽ đòi hỏi sự thay đổi về trình độ và năng lực của người lao động để đáp ứng yêu cầu sản xuất mới.
- Cùng với đó, giữa nhà trường, các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp sử dụng lao động cần phải có sự kết nối, đặt hàng để cùng chia sẻ thông tin, trách nhiệm trong việc cung ứng nhân lực cao, đón đầu cách mạng công nghiệp 4.0.
- Các doanh nghiệp cần phải phối hợp với.
- Mở rộng hình thức đào tạo nghề trong các doanh nghiệp..
- Các doanh nghiệp, trên cơ sở đó, căn cứ chiến lược kinh doanh sản xuất của mình, đặt hàng số lượng lao động cần tuyển dụng ở các vị trí, trong suốt quá trình đào tạo ở các trường, các doanh nghiệp luôn chủ động tương tác phối hợp với các trường để có được chất lượng người lao động ngay sau khi ra trường có thể làm việc ngay cho doanh nghiệp mình tránh tình trạng phải đào tạo lại, gây lãng phí nguồn lực..
- Đối với ngƣời lao động.
- Về phía người lao động trước tiên cần phải nghiêm túc đánh giá trình độ của bản thân, phải vừa học vừa làm để không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn, ngoại ngữ, giỏi một nghề, biết nhiều nghề để sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của công việc trong thời đại mới.
- Mỗi lao động rèn luyện kỹ năng để vừa có thể lao động độc lập lại vừa có thể lao động tập thể, thậm chí có thể kết hợp làm việc cùng robot..
- Vì thế, bản thân người lao động phải trang bị cho mình những kiến thức, kĩ năng mới, đáp ứng yêu cầu ứng dụng công nghệ 4.0 trong sản xuất..
- Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (2017), Bản tin cập nhật thị trường lao động Việt Nam, số 12, quý IV/2016.
- Hoàng Thị Kim Oanh (2017), Nền công nghiệp 4.0 và thách thức đặt ra đối với lao động Việt Nam, Tạp chí Tài chính số kỳ 1 tháng 6/2017.
- Tổng cục Thống kê Điều tra Lao động - Việc làm các năm .
- Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), (2016), Điều tra chủ doanh nghiệp về sự đáp ứng nhu cầu của người lao động trong khu vực Asean.
- Tổng cục Thống kê (2016), Báo cáo năng suất lao động của Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt