« Home « Kết quả tìm kiếm

Đánh giá các tổn thương nhú và một số đặc điểm lâm sàng - giải phẫu bệnh của vú


Tóm tắt Xem thử

- ĐÁNH GIÁ CÁC TỔN THƯƠNG NHÚ VÀ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG - GIẢI PHẪU BỆNH CỦA VÚ.
- Tổn thương nhú chỉ chiếm 2% các tổn thương của tuyến vú nhưng tổn thương này lại có nhiều đặc điểm có thể gây nhẫm lẫn giữa lành tính, không điển hình và ác tính trong cả chẩn đoán, phân loại và điều trị..
- Mục tiêu: Nhận xét một số đặc điểm lâm sàng, mô bệnh học và hóa mô miễn dịch của các tổn thương nhú ở tuyến vú.
- Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 79 bệnh nhân tổn thương nhú được phân loại mô bệnh học và ghi nhận một số đặc điểm lâm sàng, MBH, nhuộm HMMD với Ki67.
- Kết quả nghiên cứu: 100% típ UNNO có chỉ số Ki-67 thấp..
- Nhóm tổn thương nhú không điển hình có 1 trường hợp ghi nhận có chỉ số Ki-67 cao (p <0,05).
- Trong nhóm tổn thương nhú ác tính có 5 trường hợp có chỉ số Ki-67 cao chủ yếu gặp ở típ UTBM nhú trong vỏ (p.
- Kết luận: Tổn thương ADH và DCIS gặp nhiều trong nhóm UTBM có cấu trúc nhú hơn so với UNNO và khả năng phát triển thành UTBM có cấu trúc nhú ở nhóm có ADH cao gấp 6,5 lần so với nhóm không có ADH..
- Từ khóa: Tổn thương nhú của vú, Đặc điểm lâm sàng – giải phẫu bệnh, Hóa mô miễn dịch..
- Tổn thương nhú chỉ chiếm 2% các tổn thương của tuyến vú nhưng tổn thương này lại có nhiều đặc điểm có thể gây nhẫm lẫn giữa lành tính, không điển hình và ác tính trong cả chẩn đoán, phân loại và điều trị [1].
- Năm 2012, WHO đã phân loại các tổn thương nhú thành các nhóm: u nhú nội ống (UNNO) với các dạng UNNO kèm quá sản ống không điển hình (ADH), UNNO kèm ung thư biểu mô ống tại chỗ (DCIS), UNNO kèm tân sản tiểu thùy.
- Trong tổn thương nhú, việc xác định tổn thương lành tính hay ác tính dựa vào sự có mặt của tế bào cơ biểu mô [3].
- Tổn thương nhú rất đa dạng, các hình thái tổn thương đi từ lành tính, không điển hình tới ác tính và việc phân loại những tổn thương này vẫn là một thách thức trong chẩn đoán.
- Ở Việt Nam rất ít nghiên cứu về vấn đề này.
- Nhằm mục đích giải quyết những khó khăn nêu trên chúng tôi thực hiện đề tài này với mục tiêu: Nhận xét một số đặc điểm lâm sàng, mô bệnh học và hóa mô miễn dịch của các tổn thương nhú ở tuyến vú..
- ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
- Đối tượng nghiên cứu: gồm mẫu bệnh phẩm kèm theo hồ sơ bệnh án 79 bệnh nhân có tổn thương nhú của vú được sinh thiết hoặc phẫu thuật cắt u hoặc phẫu thuật cắt vú tại Bệnh viện K, từ tháng 5/2016 đến tháng 5/2018..
- Có chẩn đoán MBH là tổn thương nhú của vú theo phân loại của WHO..
- Tổn thương vú ở nam giới..
- Phương pháp nghiên cứu.
- Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, hồi cứu kết hợp với tiến cứu..
- Các bước tiến hành nghiên cứu.
- Nghiên cứu MBH: Phân loại mô học theo WHO 2012..
- Nghiên cứu HMMD: Các mẫu mô được nhuộm HMMD bằng máy Ventana với các dấu ấn: Ki67.
- Các biến số nghiên cứu: tuổi trung bình, nhóm tuổi.
- Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu này được thực hiện tại Bệnh viện K..
- KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.
- Biểu đồ 1: Phân bố nhóm tuổi của tổn thương nhú của vú.
- Nhận xét: Tuổi mắc các tổn thương nhú của vú trung bình trong nghiên cứu là tuổi.
- Bệnh nhân trẻ tuổi nhất trong nghiên cứu là 30 tuổi và lớn tuổi nhất trong nghiên cứu là 81 tuổi.
- Nhóm tuổi gặp tổn thương nhú nhiều nhất là 45-59 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất 35,4%.
- Nhóm tuổi nhỏ hơn 45 ít gặp tổn thương nhú của vú hơn (30,3%)..
- Tuổi trung bình của các nhóm tổn thương nhú của vú.
- Tuổi trung bình p Nhóm tổn thương nhú.
- 0,036 Nhóm tổn thương nhú.
- không điển hình .
- Nhóm tổn thương nhú.
- ác tính .
- Nhận xét: Tuổi trung bình của nhóm tổn thương nhú ác tính cao nhất 57,64 tuổi.
- Bảng 2: Tỉ lệ phân bố theo vị trí của tổn thương nhú của vú.
- Nhận xét: Vị trí của tổn thương nhú gặp ở hai bên vú phải và vú trái lần lượt là 48,1% và 51,9% với p=0,736 (>0.05).
- Như vậy, tổn thương nhú của vú phân bố không có sự khác biệt ở hai bên với mức ý nghĩa là 95%..
- Phân loại típ tổn thương nhú của vú.
- Típ tổn thương nhú của.
- Bảng 4: Mối liên quan giữa ADH với các tổn thương nhú của vú.
- Như vậy, khả năng phát triển thành UTBM có cấu trúc nhú của nhóm UNNO có kèm ADH cao gấp 6,5 lần so với nhóm UNNO không kèm ADH..
- Bảng 5: Mối liên quan giữa DCIS với các tổn thương nhú của vú.
- Như vậy, khả năng phát triển thành UTBM có cấu trúc nhú của nhóm có kèm DCIS cao gấp 73lần so với nhóm không kèm tổn thương DCIS..
- Bảng 6: Mức độ tăng sinh Ki67 trong các tổn thương nhú của vú.
- 1 Tổn thương nhú.
- không điển hình Tổn thương nhú.
- Nhóm tổn thương nhú không điển hình có 1 trường hợp ghi nhận có chỉ số Ki-67 cao..
- Trong nhóm tổn thương nhú ác tính có 5 trường hợp có chỉ số Ki-67 cao chủ yếu gặp ở típ UTBM nhú trong vỏ.
- Trung bình của chỉ số Ki-67 trong nhóm tổn thương nhú ác tính của là 23,08.
- So sánh mức độ tăng sinh Ki-67 giữa các nhóm tổn thương nhú lành tính, không điển hình là khác biệt có ý nghĩa với p=0,00 <0,05.
- Tuy nhiên, khi so sánh mức độ tăng sinh giữa các típ MBH trong tổn thương nhú ác tính thì không có sự khác biệt p=0,061>0,05..
- Nghiên cứu 79 bệnh nhân có tổn thương nhú ở vú của chúng tôi cho thấy tuổi mắc trung bình của bệnh nhân có tổn thương nhú của vú là tuổi, bệnh nhân trẻ tuổi nhất trong nghiên cứu là 30 tuổi và lớn nhất trong nghiên cứu là 81 tuổi.
- Tổn thương nhú của vú có nhóm tuổi phổ biến nhất là 45-59 tuổi (chiếm 35,4%)..
- Tuổi mắc bệnh trong nghiên cứu của chúng tôi có sự khác biệt so với một số nghiên cứu khác như tác giả Tokiniwa và cộng sự (2011) ghi nhận tuổi trung bình của bệnh nhân có tổn thương nhú là 48,8 tuổi, trẻ hơn so với nghiên cứu của chúng tôi với tuổi trẻ nhất là 22 và lớn nhất là 88 tuổi [4].
- Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tuổi mắc trung bình các tổn thương nhú không phải ác tính là 48,7 tuổi gần tương đương với nghiên cứu của Fu và cộng sự là 47 tuổi.
- Tuy nhiên, tuổi mắc trung bình của bệnh nhân có các tổn thương nhú ác tính trong nghiên cứu của chúng tôi là 57,64 tuổi, cao hơn so với nghiên cứu của Fu và cộng sự là 48,5 tuổi [6].
- Về vị trí tổn thương, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy vị trí gặp tổn thương nhú ở vú phải là 54% khác biệt không có ý nghĩa thống kê với vị trí gặp tổn thươngở vú trái là 61% (p=0,514.
- Như vậy khả năng gặp tổn thương nhú của vú là như nhau ở 2 bên trái và phải..
- Típ mô bệnh học của các tổn thương nhú của vú: trong nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận 7 típ mô bệnh học tổn thương nhú.
- Trong đó, tổn thương nhú gặp nhiều nhất có 52 trường hợp chiếm tỉ lệ 65,8% là UNNO lành tính.Các típ mô bệnh học ác tính ghi nhận 14 trường hợp chiếm 34,4%, trong đó ung thư biểu mô nhú nội ống gặp nhiều nhất với 7 trường hợp.
- Một số nghiên cứu trong nước và trên thế giới khác có ghi nhận tỉ lệ phân típ mô bệnh học tương đương với nghiên cứu của chúng tôi.
- 251 trong các nghiên cứu khác nhau.
- mẫu của các nghiên cứu thường nhỏ nên tần suất các típ mô bệnh học hiếm gặp rất biến thiên..
- Mối liên quan giữa ADH/DCIS với tổn thương nhú của vú: Trong 79 ca nghiên cứu, 17 trường hợp tổn thương nhú có kèm ADH, trong đó nhóm UNNO ghi nhận 11 trường hợp (chiếm 16,9%) thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm UTBM có cấu trúc nhú ghi nhận 8 trường hơp (chiếm 57,1%) (p=0,01<0,05).
- Khảo sát mối liên quan của ADH với tổn thương nhú của vú tính toán được tỉ suất chênh OR=6,55, có ý nghĩa thống kê do khoảng tin cậy 95% của OR nhận giá trị từ 1,89 đến 22,6 không chứa giá trị 1.
- Do đó, khả năng phát triển thành UTBM có cấu trúc nhú của nhóm tổn thương lành tính có kèm ADH cao gấp 6,6 lần so với nhóm tổn thương lành tính không kèm tổn thương ADH..
- So sánh với các nghiên cứu trên thế giới, nghiên cứu của chúng tôi có kể quả tương tự với nghiên cứu của Page và cộng sự (1996.
- Nghiên cứu của Lewis và cộng sự (2006) về phân tích nguy cơ ung thư vú ở những phụ nữ có UNNO đơn, đa ổ và kèm ADH hoặc tân sản tiểu thùy có kết luận rằng: Nguy cơ ung thư vú ở những bệnh nhân có UNNO đơn độc kèm ADH tăng gấp 5,11 lần so với nhóm không kèm tổn thương không điển hình.
- Nghiên cứu của Dupont (1985) cũng ghi nhận nguy cơ ung thư vú ở bệnh nhân có quá sản không điển hình cao gấp 5.3 lần so vớinhóm không có quá sản không điển hỉnh.
- Tổn thương quá sản không điển hình thì ngoài ADH thì còn DCIS cũng rất cần thiết được đánh giá.
- Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận 7 trường hợp tổn thương nhú có kèm DCIS, trong đó tỉ lệ phối hợp của nhóm UNNO kèm DCIS thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm UTBM có cấu trúc nhú kèm DCIS (p=0,00<0,05).
- Nghiên cứu của chúng tôi và các nghiên cứu trên thế giới đều đưa ra chung một kết luận rằng: UNNO có kèm ADH/DCIS làm tăng nguy cơ tiến triển thành UTBM..
- Tỉ lệ bộc lộ của chỉ số Ki-67 trong tổn thương nhú của vú: Trong nghiên cứu của chúng tôi, ghi.
- nhận 100% típ UNNO có chỉ số Ki-67 thấp điều này phù hợp với một tổn thương lành tính thì chỉ số tăng sinh cũng thấp.
- Nhóm tổn thương nhú không điển hình có 1 trường hợp ghi nhận có chỉ số Ki-67 cao - trường hợp này được chẩn đoán là UNNO kèm DCIS.
- So sánh mức độ tăng sinh Ki-67 giữa các nhóm tổn thương nhú lành tính, không điển hình và ác tính khác biệt có ý nghĩa với p=0.00<0.05.
- Tuy nhiên, khi so sánh mức độ tăng sinh giữa các típ MBH trong tổn thương nhú ác tính thì không có sự khác biệt p=0.11>0.05..
- Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Molino (1997), mức độ của chỉ số tăng sinh Ki-67 phụ thuộc với tuổi, kích thước khối u, tình trạng bộc lộ của u với ER, PR còn không phụ thuộc vào típ MBH..
- Tổn thương ADH và DCIS gặp nhiều trong nhóm UTBM có cấu trúc nhú hơn so với UNNO và khả năng phát triển thành UTBM có cấu trúc nhú ở nhóm có ADH cao gấp 6,5 lần so với nhóm không có ADH.
- Nhóm tổn thương nhú ác tính có chỉ số Ki67 trung bình là 21.85%..
- Đặc điểm giải phẫu bệnh, hóa mô miễn dịch trong tổn thương dạng nhú tuyến vú..
- Mục tiêu: mô tả bệnh cảnh lâm sàng và đối chiếu với kết quả xét nghiệm PCR thủy dịch của bệnh nhân không bị suy giảm miễn dịch mắc viêm màng bồ đào trước cấp tính Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cưú mô tả cắt ngang trên 30 bệnh nhân bị VMBĐ trước cấp tính 1 bên mắt, lấy dịch tiền phòng làm xét nghiêm PCR.
- Năm 2006, các tác giả Schryver, Rozenberg, Casonx 2 khi nghiên cứu tìm nguyên nhân trên 5 bệnh nhân bị VMBĐ trước bằng cách lấy thủy dịch làm phản ứng chuỗi Polymerase (PCR) thì cả 5 trường hợp đều dương tính với Cytomegalovirus (CMV).
- Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này mục tiêu: Mô tả bệnh cảnh lâm sàng và đối chiếu với kết quả xét nghiệm PCR thủy dịch của bệnh nhân không bị suy giảm miễn dịch mắc viêm màng bồ đào trước cấp tính.
- Đối tượng nghiên cứu.
- Những người bệnh già yếu trên 75 tuổi và trẻ dưới 15 tuổi do khó hợp tác trong nghiên cứu, những người có bệnh toàn thân không cho phép tham gia nghiên cứu như mắc bệnh tâm thần, bệnh tăng huyết áp, bệnh tim mạch….
- Người bệnh đang có tổn thương viêm, loét giác mạc kèm theo.

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt