« Home « Kết quả tìm kiếm

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Cải thiện sinh kế của người dân trước yêu cầu bảo tồn và phát triển rừng đặc dụng tại khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu - Phước Bửu tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu


Tóm tắt Xem thử

- Nhóm chính sách về bảo tồn.
- Bảng mô tả thời vụ cây trồng, ngành nghề chủ yếu của người dân sống trong Khu Bảo tồn TNBC-PB.
- Sự hình thành các khu vực dân cư sinh sống và canh tác trong rừng Bình Châu – Phước Bửu do chính sách di dân phát triển kinh tế mới sau ngày giải phóng đất nước và quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nhu cầu người dân cần đất để ở và canh tác dẫn đến một bộ phận người dân di cư tự phát vào rừng lấn chiếm đất để ở và canh tác sinh sống trong rừng.
- Tuy nhiên, trong quá trình người dân sống và canh tác trong rừng đã tác động lớn đến rừng chặt rừng làm nương rẫy ảnh hưởng đến hệ sinh thái rừng tự nhiên ven biển và môi trường sinh thái trong khu vực.Trước thực trạng đó chủ trương của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu là phải di dời dân đang sống và canh tác trong rừng ra khỏi Khu bảo tồn để tái tạo rừng và thúc đẩy đầu tư các dự án du lịch sinh thái trong rừng đặc dụng nhằm vừa bảo tồn đồng thời vừa phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương..
- Luận văn này được thực hiện dựa trên khung phân tích của sinh kế bền vững của Bộ Phát triển Quốc tế Vương Quốc Anh (DFID, 2001) nhằm xác định yếu tố hình thành sinh kế của người dân trong tình huống các hộ dân sinh kế trong rừng Bình Châu – Phước Bửu nằm trên địa bàn huyện Xuyên Mộc, tỉnh BR-VT..
- Tác giả đã tiến hành phỏng vấn sâu chủ rừng, trao đổi làm việc các cấp chính quyền thuộc huyện Xuyên Mộc và điều tra khảo sát kết hợp phỏng vấn hộ gia đình tại các khu vực chia theo địa giới hành chính xã để tìm hiểu về lịch sử hình thành các khu vực dân cư và sinh kế của người dân..
- Kết quả nghiên cứu cho thấy cuộc sống của người dân có nhiều khó khăn do không được chính quyền đầu tư về cơ sở hạ tầng và các dịch vụ thiết yếu phục vụ cho nhu cầu đời sống của các hộ dân.
- Tài sản sinh kế của người dân sống trong rừng còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, Mặt khác khi người dân sinh sống trong rừng sẽ có tác động không nhỏ vào hệ sinh thái và môi trường tự nhiên của rừng..
- Kết quả nghiên cứu dẫn đến đề xuất là cần thiết phải di dân ra khỏi rừng và giải quyết các chính sách để người dân ổn định cuộc sống.
- Tác động của chính sách bảo tồn và sự chậm trễ trong việc thực hiện chính sách di dời đã làm cho người dân hiện đang sinh sống canh tác trong khu bảo tồn gặp rất nhiều khó khăn như tình trạng nhà ở tạm bợ không được xây dựng nhà kiên cố, giao thông đi lại khó khăn, tình hình sản xuất không ổn định năng suất thấp, người dân sống phụ thuộc chủ yếu vào trồng cây nông nghiệp trong rừng không bền vững..
- Sự mâu thuẫn giữa mục tiêu bảo tồn rừng Bình Châu-Phước Bửu với sự ổn định sinh kế của người dân đang sinh sống canh tác trong lõi rừng không thể thực hiện được trong khi triển khai việc di dời chưa được thực hiện..
- Vì vậy tác giả nhận thấy cần thiết nghiên cứu sinh kế của các hộ dân trong Khu Bảo tồn để thấy được thực trạng sinh kế của các hộ dân đang sinh sống và canh tác trong Khu Bảo tồn từ đó khuyến nghị các chính sách hỗ trợ hay tìm cách di dời dân và tái định cư một cách hợp lý nhất để vừa đạt được mục tiêu bảo tồn rừng và vừa giải quyết sinh kế của người dân..
- Nghiên cứu nhằm tìm hiểu tác động của chính sách đến sinh kế của người dân đang sinh sống tại Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu - Phước Bửu qua đó đề xuất những chính sách để giải quyết chính sách sinh kế của hộ dân thời đáp ứng yêu cầu bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và động, thực vật rừng tại KBT BC-PB..
- Hiện trạng sinh kế của người dân trong KBTN Bình Châu - Phước Bửu như thế nào?.
- Các chính sách của Nhà nước tác động như thế nào đến sinh kế của người dân đang sống trong Khu Bảo tồn?.
- Đối tượng nghiên cứu là sinh kế của các hộ dân đang sinh sống canh tác trong Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu Phước Bửu trong bối cảnh dễ bị tổn thương do những tác động của chính sách bảo tồn tác động đến cuộc sống của người dân..
- Qua khảo sát sơ bộ và phỏng vấn sâu tác giả nhận thấy các hộ dân sinh sống canh tác trong rừng chủ yếu là người dân di cư sống tập trung tại mỗi khu vực có quan hệ huyết thống hoặc làng xóm nên có đặc điểm kinh tế - xã hội tương đồng nhau và bị ảnh hưởng tương đối giống nhau nếu nhà nước thực hiện chủ trương di dân ra khỏi lõi rừng.
- nghiên cứu (hộ).
- nghiên cứu.
- để nắm bắt thông tin về vi phạm lâm luật và tình hình kinh tế xã hội của người dân trên địa bàn tỉnh BR-VT nói chung và huyện Xuyên Mộc nói riêng..
- Phương pháp phân tích định tính: Trên cơ sở số liệu thu thập được đánh giá kết quả sinh kế của người dân và đề xuất những giải pháp sinh kế bền vững của các hộ dân..
- TÀI SẢN SINH KẾ.
- Đối với người dân đang sống tại lõi rừng của Khu Bảo tồn tài sản vật chất của họ gồm: nhà cửa, xe cộ, máy móc, trang thiết bị sinh hoạt và sản xuất, dụng cụ lao động, động vật nuôi..
- Các cơ cấu và các quy trình chuyển đổi đề cập đến môi trường thể chế, cách thức tổ chức cùng với sự hiện diện của các chính sách, các quy định pháp luật ảnh hưởng đến hoạt động sinh kế của người dân (DFID, 2001)..
- Nghiên cứu tình huống sinh kế của người dân tại Khu Bảo tồn thiên nhiên Bình Châu – Phước Bửu tác giả dựa vào 3 nghiên cứu của một số tác giả trước đó có sử dụng khung phân tích DFID như sau:.
- Về vấn đề giải quyết chính sách định canh, định cư tác giả đã tham khảo nghiên cứu của Dương Minh Ngọc (2013) thực hiện nghiên cứu về tình huống người dân di cư vào cư trú giữa rừng Buôn Ya wầm trên địa bàn xã EA KIẾT huyện Cư Mgar, tỉnh Đắc Lắc.
- thức hóa đất khai hoang trong rừng cho người dân tiếp tục sản xuất.
- Từ đó tác giả có những khuyến nghị đối với UBND tỉnh Đắk lắk phải bố trí nguồn vốn tăng mức hỗ trợ di dời, xây dựng hệ thống thoát nước để thu hút người dân đồng thời kiến nghị huyện Cư M’gar phải cưỡng chế các hộ dân cư trú trong rừng ra ngoài nhằm hạn chế tình trạng phá rừng đồng thời xử lý nghiêm những hành vi vi phạm lâm luật..
- Nghiên cứu này tác giả đã đề xuất mô hình sinh kế cộng đồng nhằm đem lại cho người dân sự cải thiện về khả năng tiếp cận các nguồn vốn vật chất và nguồn vốn tài chính bởi theo tác giả Nguyễn Xuân Vinh các hộ dân bị thiếu hụt nguồn vốn và kỹ thuật có thể được giải quyết bằng cách tham gia các mô hình sản xuất tập thể hợp tác xã và nhóm sản xuất có sự hỗ trợ của Nhà nước..
- Về vấn đề giải quyết di dời dân ra khỏi rừng đặc dụng tác giả tham khảo nghiên cứu của Đỗ Vũ Gia Linh (2015): “Cải thiện sinh kế cho người dân trong yêu cầu bảo tồn tài nguyên tại ấp 5 xã Mã Đà, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai”, khi thực hiện chủ trương di dời 1300 hộ dân ra khỏi rừng đặc dụng Khu bảo tồn thiên nhiên văn hóa Đồng Nai.
- Báo cáo đã nhìn nhận thấy nếu nhà nước có chính sách giao khoán đất rừng cho người dân trồng bảo vệ thì hiệu quả phát huy tốt hơn so với các tổ chức nhà nước quản lý.
- Khu vực đất các hộ dân sinh sống canh tác Ranh giới Khu bảo tồn.
- Lao động (người).
- Do thu nhập thấp và chủ yếu là lao động nông nghiệp chỉ sản xuất theo mùa vụ nên một số người dân trên địa bàn huyện thường thực hiện các hành vi chặt phá rừng để canh tác nông nghiệp, khai thác, vận chuyển lâm sản vào những thời kỳ nông nhàn đảm bảo cuộc sống của hộ gia đình..
- Lao động đã qua đào tạo nghề : Theo kết quả lấy mẫu nghiên cứu số lao động đã qua đào tạo nghề thấp chiếm tỷ lệ 23,1%, lao động chưa qua đào tạo nghề là chiếm tỷ lệ 76,9%.Qua số liệu này cho chúng ta thấy nguồn lực lao động của người dân hạn chế, lực lượng lao động trình độ thấp, thiếu kỹ năng tay nghề để có thể tăng giá trị ngày công lao động, tỷ lệ người phụ thuộc không có nguồn thu nhập nào khác phải phụ thuộc toàn bộ người thân trong gia đình..
- Qua số liệu này cho chúng ta thấy nguồn lực lao động trong thời gian tới của người dân hạn chế, trẻ em là nguồn lực lao động tương lai cho xã hội.
- Số trẻ em không được đào tạo nghề đồng nghĩa với việc lực lượng lao động này có trình độ thấp, thiếu kỹ năng tay nghề và sẽ làm nghề phụ thuộc lớn vào tài nguyên rừng như làm rẫy, thu hái lâm sản rừng, làm thuê mướn...sẽ ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống sau này của người dân bởi nguồn thu nhập phụ thuộc chủ yếu vào tài nguyên rừng..
- Qua thống kê mẫu khảo sát cho thấy tại khu vực này người dân có một số ngành nghề phụ thuộc vào vốn tự nhiên đó là:.
- Nghề khai thác đánh bắt thủy sản bởi khu rừng này có một số hồ nước tự nhiên có thể khai thác đánh bắt thủy sản, mặt khác địa thế rừng BC-PB nằm dọc ven biển của huyện Xuyên Mộc thuận lợi cho người dân làm nghề biển..
- Từ kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ người dân làm nghề rẫy tương đối cao chiếm tỷ lệ 66% điều đó cho thấy sinh kế của hộ dân phụ thuộc rất lớn vào đất rừng ảnh hưởng đến bảo tồn phát triển rừng BC-PB.
- Tại các khu vực người dân sinh sống canh tác trong rừng những hộ khá/giàu có nguồn vốn tự nhiên là đất đai lớn bình quân 1,63ha/người.
- Các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác trong rừng chủ yếu là đi đào củ mài, hái lá giang, củi khô, thú rừng cũng được người dân khai thác cho nhu cầu trực tiếp của gia đình và trao đổi hàng hóa để phục vụ cho cuộc sống..
- Trong khu bảo tồn do thiếu nguồn nước đất canh tác của người dân chỉ sản xuất vào mùa mưa hoặc trồng một số loại cây lâu năm như cây điều để phù hợp với nguồn nước luôn bị thiếu, tuy nhiên những năm gần đây dịch sâu bệnh trên cây điều là cây trồng chính trong rừng (con sùng đục gốc điều) đã làm cho năng suất giảm nhiều cây bị chết gây thiệt hại cho người nông dân.
- tuy nhiên chính sách bảo tồn và định hướng phát triển các cây rừng tự nhiên nên người dân chuyển sang trồng tràm để khai thác thường bị cơ quan chức năng ngăn chặn nhổ bỏ..
- Đặc điểm sinh kế của người dân trong rừng chủ yếu làm nghề trồng trọt và chăn nuôi do đó tính mùa vụ ảnh hưởng đến sinh kế của các hộ dân làm cho nguồn thu nhập sinh kế của hộ không ổn định trong năm đòi hỏi các hộ phải đa dạng hóa ngành nghề mưu sinh cũng như phải đáp ứng yêu cầu về phương tiện sản xuất và kỹ năng lao động cần thiết cho mỗi ngành nghề..
- Chính sách này trên thực tế triển khai thực hiện công tác bảo vệ phát triển rừng thực tế tại Khu bảo tồn TNBC-PB gặp phải những khó khăn bất cập làm cản trở tới hiệu quả bảo vệ rừng và sinh kế của người dân được giao khoán rừng:.
- Trước hết là chính sách cho người nhận khoán trồng rừng hưởng tiền công chăm sóc và bảo vệ rừng rất thấp nên người dân không mặn mà với công tác trồng rừng.
- Trong khí đó chính sách đối với rừng đặc dụng không cho người dân sống trong rừng nếu nhận khoán rừng được khai thác, tỉa thưa nhằm bảo tồn các loại động thực vật rừng.
- Do vậy người dân không mặn mà nhận khoán rừng nên tình trạng canh tác nông nghiệp trên đất rừng vẫn tiếp diễn mà chưa ngăn chặn khắc phục được..
- Bên cạnh đó Luật bảo vệ phát triển rừng cho phép người dân sống trong rừng nếu nhận khoán rừng sẽ được đầu tư du lịch sinh thái dưới tán rừng nhằm hạn chế đốt rừng làm nương rẫy, để người dân có thu nhập từ kinh doanh dịch vụ du lịch..
- Quyền lợi của người dân canh tác trong rừng chuyển sang nhận khoán rừng pháp luật cho phép hộ nhận khoán được khai thác củi khô trong rừng, tuy nhiên giá.
- Qua trao đổi với Ông Lê Văn Khanh – Giám đốc Ban Quản lý Khu Bảo tồn thiên nhiên Bình Châu –Phước Bửu kiêm hạt trưởng Hạt kiểm lâm Bình Châu cho thấy người dân thì vẫn cứ tiếp tục canh tác nông nghiệp trong rừng nhưng các cơ quan quản lý bảo vệ rừng không thể di dời người dân ra ngoài nếu không có tỉnh hỗ trợ.
- Chính sách khoán rừng thấp người dân không chịu nhận khoán nên vẫn tiếp tục canh tác trong rừng..
- Ngoài ra, qua làm việc với đồng chí Hồ Nhật Dân - Trưởng phòng Quản lý Bảo vệ rừng thuộc ban Quản lý Khu Bảo tồn cho biết người dân thường lợi dụng ban đêm các các bộ không đi tuần tra kiểm soát được, các hộ dân sống trong rừng tiến hành chặt phá rừng khu vực lân cận và bí mật gieo hạt điều sẵn chờ đến mùa mưa cây điều mọc lên thành rẫy các cơ quan chức năng rất khó phát hiện để xử lý kịp thời.
- Chính điều đó dẫn đến mâu thuẫn giữa chính sách bảo tồn rừng với sinh kế của người dân.
- Nếu muốn giải quyết sinh kế cho người dân thì lại vi phạm chính sách bảo tồn rừng đặc dụng mà pháp luật nghiêm cấm..
- Đểm này tạo điều kiện khích lệ người dân đang canh tác nông nghiệp trong rừng chuyển sang nhận khoán trồng và bảo vệ rừng.
- Điểm mới này góp cho người dân giải quyết được thu nhập ngắn hạn khi chưa có nguồn thu từ lâm sản tăng thêm từ rừng.
- Đây chính là điều kiện giúp cho chính quyền và cơ quan bảo vệ rừng vận động người dân bàn giao thực địa đang canh tác nông nghiệp để chuyển sang nhận khoán trồng rừng..
- Bảo tồn.
- Quan điểm của ông Lê Văn Khanh – Giám đốc kiêm hạt trưởng Hạt kiểm lâm BC-PB: “Quan điểm tôi là tỉnh cần thiết phải di dời người dân ra khỏi rừng để cho các cơ quan quản lý Nhà nước thuận lợi cho bảo vệ và phát triển rừng tránh tình trạng lấn chiếm rừng làm nương rẫy như hiện nay.
- Từ những kết quả phân tích ở trên, chương này trình bày kết luận và đưa ra một số khuyến nghị về một số chính sách cần giải quyết và một số biện pháp cần thiết để cải thiện sinh kế cho người dân đang sinh sống và canh tác trong Khu Bảo tồn.
- Nghiên cứu này cho chúng ta thấy sinh kế của người dân đang sinh sống canh tác trong Khu Bảo tồn đang bị ảnh hưởng lớn bởi chính sách bảo tồn rừng..
- Người dân sinh sống canh tác trong rừng đã tác động đến các loài động thực vật rừng làm giảm diện tích rừng tự nhiên và các loài động vật đang sống trong rừng do hành vi săn bắt thú rừng..
- Người dân thì cần đất để sản xuất nông nghiệp và đất để ở nên vẫn tiếp tục sinh kế trong rừng.
- Sinh kế trong rừng bị cản trở một số quyền của người dân bởi chính sách bảo tồn rừng đặc dụng..
- Trong khi đó người dân không được khai thác hưởng lợi từ rừng vì không có cơ chế cho phép người dân được khai thác lâm sản tăng thêm..
- Chính vì, vậy tác giả đã phân tích thêm một số chính sách quyền lợi ảnh hưởng đến chủ rừng và người dân được giao rừng để từ đó đưa ra những khuyến nghị phù hợp với chủ trương chính sách mới và thực tế của các hộ dân..
- Ngoài ra tác giả tiến hành thống kê và khảo sát số liệu về thực trạng đời sống của người dân đang sống, canh tác trong rừng đồng thời phỏng vấn sâu một số cán bộ chính quyền địa phương để nhận thấy quan điểm và tình hình kinh tế xã hội của địa phương và của tỉnh trong việc thực hiện chủ trương di dời dân ra khỏi Khu bảo tồn.
- Qua phỏng vấn tác giả nhận thấy việc thực hiện di dời là rất cần thiết và tỉnh có thể bố trí được nguồn kinh phí giải quyết các chính sách cho người dân bị di dời trong thời gian tới trong đó cần phải giải quyết công ăn việc làm, chính sách tái định cư khi di dời để người dân ổn định cuộc sống hạn chế tình trạng tái lấn chiếm sau khi thực hiện di dời..
- Qua kết quả phân tích và phỏng vấn sâu chính quyền địa phương cho thấy nguồn lực đất đai tại huyện Xuyên Mộc rất hạn chế, địa phương không còn nhiều quỹ đất công để có thể bố trí đất tiếp tục sản xuất nông nghiệp cho người dân bị di dời.
- Trước mắt Huyện Xuyên Mộc chỉ có thể bố trí khu vực tái định cư cho người dân đang sống trong rừng.
- Nhóm 3: Nhóm sinh sống trong rừng nhưng sinh kế không phụ thuộc vào rừng Từ đó tác giả đưa ra một số chính sách khuyến nghị sau đối với các cơ quan chức năng để giải quyết hài hòa giữa sinh kế của người dân đang sinh sống, canh tác trong rừng và chính sách bảo tồn phát triển rừng đặc dụng tại Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu – Phước Bửu..
- hợp pháp (tức họ phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với đất ở) nhằm đảm bảo an sinh xã hội cho người dân nằm trong dự án..
- Việc thực hiện chính sách này UBND tỉnh bố trí nguồn kinh phí và giao cho UBND huyện Xuyên Mộc bố trí quỹ đất và xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ đầy đủ đảm bảo cho người dân sinh sống thuận lợi.
- Trong quá trình xây dựng khu đất tái định cư tác giả khuyến nghị UBND huyện Xuyên Mộc cần xem xét bố trí địa điểm tái định cư cho phù hợp vì qua khảo sát của tác giả và số liệu thống kê của UBND huyện Xuyên Mộc cho thấy người dân sống trong rừng chủ yếu tại xã Bình Châu, mặt khác qua khảo sát ý kiến hộ dân tâm tư nguyện vọng của họ muốn sống gần nơi đã sinh sống gắn bó để hạn chế sự xáo trộn và thay đổi lớn về phong tục tập quán của người dân.
- Vì vậy về địa điểm bố trí đất tái định cư tác giả kiến nghị UBND huyện Xuyên Mộc cần lựa chọn địa điểm giáp xã Bình Châu vì đây là khu vực dân tập trung sinh sống trong rừng để hạn chế thấp nhất ảnh hưởng sinh kế và văn hóa của người dân khu vực này..
- Tác giả khuyến nghị UBND tỉnh trước khi di dời dân UBND tỉnh phải bố trí kinh phí cho UBND huyện Xuyên Mộc xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, hoàn chỉnh thuận tiện cho sinh hoạt của người dân và đảm bảo những tiện ích cần thiết trong cuộc sống để người dân yên tâm di dời vào nơi ở mới..
- Chính sách hỗ trợ kinh phí di dời chỗ ở: Bên cạnh chính sách giao đất ở tái định cư tác giả đề xuất UBND tỉnh bố trí hỗ trợ kinh phí di dời cho các hộ nằm trong diện phải di chuyển chổ ở mới để người dân có tiền chuyển tài sản sinh hoạt cần thiết về nơi ở mới để người dân mau chóng ổn định cuộc sống khi thực hiện chủ trương này..
- Chính sách hỗ trợ kinh phí thuê nhà: Để thực hiện chính sách này cần thiết phải hỗ trợ tiền thuê nhà cho hộ dân tương ứng với giá thuê tại thời điểm bị di dời trong thời gian 6 tháng kể từ ngày có quyết định của Nhà nước được giao đất ở mới được quy định tại quyết định 52/QĐ.UBND ngày của UBND tỉnh BR-VT để người dân có thể xây nhà mới tại nơi được Nhà nước giao đất tái định cư..
- Từ thực tế khảo sát phỏng vấn các hộ dân tác giả nhận thấy để được người dân đồng thuận cao UBND huyện Xuyên Mộc phối hợp với các ngành chức năng đưa ra nhiều phương án trên cơ sở hài hòa lợi ích của Nhà nước, hộ dân và cộng đồng, doanh nghiệp.
- Vì vậy tỉnh cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án để chủ dự án là người bảo vệ rừng và người lao động khi có việc làm sẽ dần dần chuyển từ nghề canh tác làm rẫy trong rừng sang làm làm dịch vụ du lịch và lao động trong các khu du lịch.Tuy nhiên dự án này đang vướng mắc về đất đai, vì vậy tác giả khuyến nghị UBND tỉnh nhanh chóng tháo gỡ các rào cản về mặt cơ chế chính sách về đất đai và thủ tục hành chính thực hiện dự án du lịch sinh thái dưới tán rừng để đẩy nhanh tiến độ dự án đi vào hoạt động nhằm tạo thêm công ăn việc làm cho người dân địa phương chuyển đổi nghề nghiệp không tái lấn chiếm đất rừng làm nương rẫy..
- Cơ chế này tháo gỡ được khó khăn trong việc thu hút người dân nhận khoán rừng và tăng thu nhập ổn định cuộc sống.
- Do vậy những đối tượng hiện nay đang canh tác nhiều đất trong rừng nên vận động người dân nhận khoán tại chỗ trên mảnh đất đang canh tác để họ thấy được lợi ích tự nguyện chuyển sang trồng rừng, bảo vệ rừng để hưởng lâm sản tăng thêm từ rừng và được phép sản xuất nông nghiệp xen canh mà không ảnh hưởng đến nguồn thu nhập của họ.
- Đề xuất này tác giả tham khảo báo cáo của Tô Xuân Phúc và Trần Hữu Nghị (2014), báo cáo này đã nhìn nhận thấy nếu nhà nước có chính sách giao khoán đất rừng cho người dân trồng bảo vệ thì hiệu quả phát huy tốt hơn so với các tổ chức nhà nước quản lý.
- Tuy nhiên tác giả khuyến nghị Sở NN&PTNT, UBND nên sửa đổi mức hỗ trợ tiền công trồng chăm sóc rừng tương ứng với ngày công lao động để người dân tâm huyết gắn bó với rừng sẽ hạn chế thực hiện hành vi chặt phá rừng làm nương rẫy..
- Khi chuyển sang loại hình này người dân vẫn trực tiếp quản lý rừng nhưng thay đổi mục đích sử dụng đất từ canh tác sản xuất nông nghiệp sang trồng chăm sóc và bảo vệ rừng để hưởng lợi từ rừng.
- Đây cũng là nguồn thu nhập ổn định cho hộ dân về lâu dài đảm bảo cuộc sống của hộ khi không còn canh tác nông nghiệp trên đất rừng vì cơ chế mới theo Luật lâm nghiệp cho phép hộ được trồng xem canh cây nông nghiệp giải quyết nguồn thu nhập trước mắt và về lâu dài người dân được hưởng thành quả tăng thêm từ rừng giúp hộ có thu nhập và gắn bó với nghề rừng..
- Nhóm chính sách về bảo tồn:.
- Sau khi Luật lâm nghiệp có hiệu lực thi hành người dân làm nghề rừng sẽ được hưởng lâm sản tăng thêm so với thời điểm bàn giao thực địa giao khoán.
- Điều này gắn quyền lợi của người dân với rừng sẽ nâng cao trách nhiệm của họ trong việc bảo vệ rừng và giữ rừng.
- Do vậy việc thực hiện chính sách này phải hết sức thận trọng và có sự lựa chọn đối tượng cụ thể đồng thời phải có biện pháp chế tài đủ mạnh để người dân không thể bất chấp lợi ích từ rừng quay lại chặt phá các loại gỗ rừng và khai thác lâm sản khác của rừng.
- Mô hình này phù hợp với Luật Lâm nghiệp đồng thời đã triển khai có hiệu quả ở một số địa phương tăng độ che phủ rừng đồng thời tạo công ăn việc làm và thu nhập cho người dân gắn bó với rừng..
- Đối với tài sản là vật kiến trúc trên cơ sở nghiên cứu cẩm nang ngân hàng ADB tác giả khuyến nghị UBND tỉnh đền bù trên nguyên tắc ngang giá về tài sản là vật kiến trúc mà không tính giá trị còn lại của tài sản để người dân có thể sử dụng tiền đền bù xây dựng lại nhà cửa ở chỗ tái định cư mới..
- Đối với tài sản là động sản, động vật nuôi có thể di dời khuyến nghị tỉnh BR-VT hỗ trợ chi phí di chuyển tài sản về chỗ ở mới để người dân tiếp tục sử dụng tránh lãng phí ngân sách nhà nước và tiền của nhân dân..
- trồng mang lại sau khi cây trồng bị Nhà nước thu hồi đến khoảng thời gian người dân khôi phục được cây mới có giá trị tương đương..
- Về phạm vi áp dụng:Nghiên cứu này có giá trị áp dụng tương tự đối với các trường hợp thực hiện di đời người dân ra khỏi rừng nhằm ổn định đời sống của người dân bảo đảm sinh kế cho người dân đồng thời bảo tồn phát triển các loại rừng đặc biệt là rừng đặc dụng..
- Tuy nhiên đề tài được nghiên cứu trên cơ sở tham khảo ý kiến của nhiều nhà lãnh đạo, quản lý và phỏng vấn tâm tư nguyện vọng của hộ dân cho nên về mặt thực tiễn có tính khả thi tương đối cao trong việc áp dụng vào tình huống này hoặc tình huống tương tự di dân ra khỏi rừng để giải quyết mục đích bảo tồn rừng và chính sách sinh kế cho người dân là nhiệm vụ quan trọng của chính quyền nhằm ổn định tình hình kinh tế - xã hội của địa phương..
- Đức Trung và Tấn Nhất (2014), “Người dân bị cô lập giữa rừng”, Báo Sài Gòn Giải Phóng Online, truy cập ngày tại địa chỉ:.
- “Bình luận chính sách: Trao quyền cho người dân sẽ bảo vệ rừng tốt hơn”, Bản tin Chính sách Tài nguyên – Môi trường – Phát triển bền vững, (Số 4), Quý IV/2011, tr.7-

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt