« Home « Kết quả tìm kiếm

Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực du lịch đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế


Tóm tắt Xem thử

- GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH ĐÁP ỨNG NHU CẦU HỘI NHẬP QUỐC TẾ.
- TÓM TẮT: Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đã mở ra nhiều cơ hội cùng với đó những thách thức cho ngành du lịch, đặc biệt trong đó là thách thức lớn về nguồn nhân lực du lịch.
- Những năm qua, công tác đào tạo nhân lực du lịch đã được quan tâm, đạt nhiều kết quả, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển ngành ngành du lịch nước nhà.
- Tuy nhiên, đâu đó công tác đào tạo nhân lực du lịch vẫn còn nhiều mặt chưa đáp ứng nhiệm vụ phát triển du lịch khi hội nhập quốc tế.
- Bài viết này tập trung phân tích thực trạng ngành du lịch, thực trạng nguồn nhân lực phục vụ ngành du lịch và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực du lịch đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế..
- Từ khóa: Giải pháp nâng cao, chất lượng đào tạo, nguồn nhân lực du lịch..
- Công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao ở Việt Nam là một vấn đề quan trọng và được thảo luận, bàn bạc trong nhiều năm qua và điều đó càng có ý nghĩa hơn khi Việt Nam hội nhập vào khu vực và quốc tế, đặc biệt là Cộng đồng Kinh tế ASEAN.
- Đây không chỉ là một cơ hội, mà còn là thách thức đối với tiến trình hội nhập du lịch của Việt Nam và các nước trong khu vực.
- Đặc thù của ngành du lịch là kinh doanh dịch vụ, nên lao động tham gia vào ngành này cũng mang tính dịch vụ.
- Do đó, để các doanh nghiệp du lịch, nhà hàng, khách sạn có một đội ngũ lao động có chất lượng cao thì công tác đào tạo nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định..
- Cơ sở đào tạo du lịch có chất lượng, phù hợp với chuẩn khu vực và quốc tế thì mới tạo nên một lực lượng lao động du lịch đáp ứng nhu cầu xã hội và thị trường lao động quốc tế.
- Nếu các cơ sở đào tạo du lịch ở Việt Nam không có sự chuẩn bị tốt, không sẵn sàng chủ động trong hội nhập và quá trình hội nhập chậm thì sẽ tụt hậu, không thể bắt kịp với sự phát triển của các cơ sở đào tạo du lịch của các nước trong khu vực.
- Chất lượng nguồn nhân lực du lịch thấp và thậm chí có nguy cơ Việt Nam trở thành “vùng trũng”, là nơi tiếp nhận và cung cấp lao động du lịch cấp thấp.
- Đứng trước những cơ hội và thách thức như vậy, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch là một vấn đề then chốt và mang tính cấp bách đối với các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực du lịch hiện nay..
- THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH.
- Theo thống kê của Vụ Đào tạo - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Báo Nhân dân, 2017), tính đến năm 2016, cả nước có 156 cơ sở đào tạo du lịch, trong đó có: 48 trường đại học, 43 trường cao đẳng (trong đó có 10 trường cao đẳng nghề), 40 trường trung cấp (trong đó có 4 trường trung cấp nghề).
- 2 công ty đào tạo và 23 trung tâm, lớp đào tạo nghề..
- Trong những năm qua, hệ thống giáo dục đào tạo du lịch của Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ và đã đào tạo ra một lực lượng lao động ngành du lịch khá lớn tham gia vào thị trường lao động.
- Tuy nhiên, so với nhu cầu phát triển ngành du lịch Việt Nam hiện nay và việc hội nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN đang diễn ra mạnh mẽ, thì nguồn nhân lực ngành du lịch đã được đào tạo còn nhiều bất cập..
- Cho đến nay cũng chưa có một cuộc điều tra chính thức nào được công bố về chất lượng đào tạo nguồn nhân lực du lịch đã cải thiện bao nhiêu sau nhiều năm đổi mới nội dung và chương trình đào tạo, sau bao nhiêu năm thảo luận, bàn bạc qua các buổi tọa đàm, hội thảo khoa học trong nước cũng như quốc tế.
- Tuy nhiên, xét về tổng thể, đặc biệt từ thái độ học tập và kết quả học tập của sinh viên, những doanh nghiệp du lịch, nhà hàng, khách sạn sử dụng lao động đều nhận thấy chất lượng đào tạo còn thấp..
- Hồ Chí Minh cho rằng: “Kết cấu khung chương trình đào tạo giữa các cơ sở rất khác nhau về tỷ lệ giữa khối kiến thức đại cương và chuyên ngành.
- Thứ nữa là hơn một nửa lao động làm việc trong ngành du lịch hiện nay lại rất yếu về ngoại ngữ, đây là một hạn chế rất lớn của du lịch Việt Nam.
- Nguyễn Văn Đính, Phó Chủ tịch Hiệp hội Đào tạo du lịch Việt Nam cho biết: “Hiện có khoảng 60 % lực lượng lao động của ngành biết ngoại ngữ nhưng chủ yếu là tiếng Anh (42.
- Đội ngũ này cũng chưa có trình độ chuyên sâu về du lịch.
- So với những ngành đào tạo khác, đây là tỷ lệ rất thấp.
- Ngoài ra, vấn đề “đầu ra” với sinh viên khi theo học tại các cơ sở đào tạo du lịch cũng chưa được bảo đảm.
- Theo các chuyên gia về lĩnh vực du lịch, hiện tại ngành du lịch của Việt Nam đang thiếu những nhân lực vừa chuyên nghiệp trong kỹ năng, tác phong.
- Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Hạ Long (Quảng Ninh) Trần Trung Vỹ cho rằng: “hầu hết các cơ sở đào tạo chưa có chiến lược liên kết với các doanh nghiệp du lịch, cho nên dẫn đến tình trạng trường đào tạo một đằng, doanh nghiệp sử dụng cần một nẻo.
- Doanh nghiệp là bộ phận bảo đảm đầu ra chủ yếu cho sinh viên nhưng mối quan hệ giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp du lịch hiện nay vẫn chưa rõ ràng về lợi ích, dẫn đến việc phần lớn doanh nghiệp kết hợp với cơ sở đào tạo mang tính chất quan hệ cá nhân…” (Báo Nhân dân, 2017).
- Cuối cùng là các cơ sở đào tạo du lịch hiện nay nhìn chung còn thiếu hệ thống giáo trình học liệu chuyên ngành du lịch.
- Với thực trạng công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch Việt Nam như trên, vẫn còn khoảng cách khá xa về chất lượng so với nhu cầu của các doanh nghiệp và xã hội.
- Nhất là trong bối cảnh Việt Nam gia nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN, đây sẽ là thách thức đối với lao động du lịch Việt Nam nếu không có trình độ, chất lượng tương đồng.
- Do đó, ít nhất là để không bị thua ngay trên sân nhà, các cơ sở đào tạo du lịch cần nhanh chóng có những giải pháp, chiến lược bài bản trong đào tạo nguồn nhân lực..
- NGUYÊN NHÂN TỒN TẠI TRONG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH Qua phân tích thực trạng vấn đề đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch trong thời gian qua, thì những hạn chế yếu kém này nhìn chung xuất phát từ một số nguyên nhân cơ bản trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực du lịch như sau:.
- Một là, đội ngũ giảng viên chuyên ngành trong đào tạo du lịch hiện nay chưa đáp ứng yêu cầu về chất lượng..
- So với những năm trước đây, thì đội ngũ giảng viên tham gia giảng dạy về du lịch không ngừng tăng lên.
- Lực lượng giảng viên ngoài kiến thức chuyên môn được đào tạo bài bản hoặc bồi dưỡng về chuyên ngành du lịch (ở trong nước, ngoài nước) đều có kinh nghiệm thực tiễn về công tác trong lĩnh vực du lịch.
- Hai là, chương trình giảng dạy của một số cơ sở đào tạo vẫn còn chắp vá, ít yếu tố mới.
- nội dung chương trình chưa gắn kết với thực tiễn ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo..
- Các cơ sở đào tạo du lịch thời gian qua cũng có nhiều cải tiến về nội dung chương trình đào tạo cho phù với nhu cầu phát triển chung của ngành du lịch, đã có nhiều hình thức liên kết đào tạo trong và ngoài nước với các trường đào tạo du lịch của các nước có nền công nghiệp du lịch phát triển như Pháp, Thụy Sĩ.
- Tuy nhiên, nội dung chương trình đào tạo hiện nay còn tập trung nhiều vào việc trang bị các kiến thức về lý thuyết và còn xem nhẹ các kỹ năng thực hành..
- Ngoài ra, kỹ năng nghiệp vụ và trình độ ngoại ngữ của sinh viên du lịch ra trường là điều quan tâm trong chương trình đào tạo.
- Ba là, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho việc giảng dạy của nhiều cơ sở đào tạo tạo còn nghèo nàn, lạc hậu, đặc biệt là thiếu các phòng thực hành nghiệp vụ dành cho bộ phận lễ tân, bộ phận buồng, bộ phận nhà hàng, bộ phận bếp,….
- Nhìn chung, phần lớn các cơ sở đào tạo đều trang bị các phương tiện giảng dạy tương đối hiện đại như overhead, slide projector, video, VCD, phòng Lab.
- GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH.
- Qua nhận định và phân tích những nguyên nhân tồn tại trong công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch vừa đề cập ở trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng, việc nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực du lịch trong thời kỳ hội nhập quốc tế được cấu thành bởi nhiều nhân tố như chương trình đào tạo, phương pháp tiếp cận dạy và học, đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy, sự liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp,… Vì vậy, để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực du lịch hiện nay thì các cơ sở đào tạo du lịch cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp như sau..
- Cải tiến chất lượng chương trình đào tạo theo chuẩn đầu ra.
- Phát triển chương trình đào tạo (CTĐT) theo hướng hiện đại, theo tiêu chuẩn quốc tế, dựa trên các tiếp cận mới là một trong những giải pháp quan trọng để cơ sở đào tạo có được những sản phẩm chất lượng, đáp ứng yêu cầu đa dạng của thị trường du lịch.
- Trong đó, những yêu cầu mới từ bên sử dụng lao động đòi hỏi việc phát triển các chương trình đào tạo phải được chú ý đặc biệt với việc xác định chuẩn đầu ra (CĐR), phù hợp và khả thi.
- Các trường đào tạo du lịch có thể vận dụng tiêu chuẩn VTOS 2013 của Dự án EU đã có sẵn để xây chương trình đào tạo cho phù hợp với nhu cầu thực tế..
- Hai: Tổ chức buổi tọa đàm, hội thảo với doanh nghiệp, chuyên gia du lịch về CTĐT.
- Cơ sở đào tạo du lịch tổ chức các buổi tọa đàm thường niên với đại diện các doanh nghiệp du lịch, khách sạn, nhà hàng, các chuyên gia ngành du lịch để xin ý kiến góp ý nhằm điều chỉnh CTĐT, CĐR cho sát với thực tiễn, nhằm trang bị cho sinh viên những kiến thức, kỹ năng, thái độ phù hợp với yêu cầu của đông đảo nhà tuyển dụng..
- Tất cả các thông tin phản hồi từ phía doanh nghiệp, từ chuyên gia đều được cơ sở đào tạo sử dụng làm căn cứ để thiết kế và cải tiến CTĐT ngành du lịch, nhà hàng, khách sạn..
- Những nội dung thực hành yêu cầu giảng viên soạn nội dung đề cương môn học theo cấu trúc của thực hành nghề, đồng thời tiến hành đào tạo thực hành tại phòng thực hành với các trang thiết bị, vật dụng cần thiết nhằm đảm bảo cho sinh viên dễ dàng tiếp cận thực tế..
- Các cơ sở đào tạo du lịch cần phải xây dựng một đội ngũ giảng viên cơ hữu chuyên ngành du lịch, nhà hàng, khách sạn đạt chuẩn, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, có kinh nghiệm trong giảng dạy cũng như thực tiễn về nghề để giảng dạy và hướng dẫn sinh viên thực hành nghề nghiệp..
- Bên cạnh việc yêu cầu giảng viên đáp ứng theo tiêu chuẩn nghề nghiệp của giảng viên, các cơ sở đào tạo cần thường xuyên có chương trình kế hoạch bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ như đào tạo nghiệp vụ về du lịch để nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề.
- đào tạo tiếng Anh chuyên ngành,… cho đội ngũ cán bộ giảng viên..
- Đào tạo giảng viên không những giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ mà còn có kỹ năng nghiệp vụ vững vàng, là tấm gương mẫu mực để sinh viên noi theo..
- Hai: Xây dựng chương trình giao lưu, trao đổi kinh nghiệm giữa giảng viên với các doanh nghiệp du lịch.
- Do ngành du lịch có đặc thù riêng, nên hàng năm việc tạo điều kiện để giảng viên cập nhật kiến thức mới qua thực tế tại các doanh nghiệp du lịch, nhà hàng, khách sạn là việc làm hết sức cần thiết và hữu ích trong công tác giảng dạy..
- để nắm bắt thực tiễn tại các cơ sở kinh doanh du lịch..
- Nếu làm được điều này thì cơ sở đào tạo đã hội đủ cả hai trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm thực tiễn nghề là những yếu tố thuận lợi cho công tác giảng dạy và nghiên cứu của mình, đào tạo ra một đội ngũ lao động du lịch có chất lượng cao cho ngành du lịch..
- Các cơ sở đào tạo du lịch ký kết hợp đồng giảng dạy theo hình thức giảng viên 3, giảng viên doanh nghiệp để mời các chuyên gia từ doanh nghiệp du lịch, nhà hàng, khách sạn tham gia giảng dạy một số học phần chuyên ngành, chuyên sâu, cũng như các học về quản trị doanh nghiệp..
- Cơ sở vật chất và phòng thực hành, thực tập: Ngoài phòng học lý thuyết (trang bị các phương tiện giảng dạy tương đối hiện đại như overhead, slide projector, video, VCD) thì các cơ sở đào tạo du lịch, trường cần tăng cường thêm các phòng học mô phỏng với đầy đủ trang thiết bị, tiện nghi để học thực hành cho từng chuyên ngành..
- Xây dựng cơ sở phòng thực hành theo tiêu chuẩn nghề du lịch (trên cơ sở nền tảng Tiêu chuẩn VTOS)..
- Các cơ sở đào tạo du lịch cần đầu tư và xây dựng các phòng thực hành như: ngành khách sạn thì có phòng thực hành buồng và phòng lễ tân theo tiêu chuẩn khách sạn 5 sao.
- ngành nhà hàng có phòng ăn, phòng bếp, phòng quầy bar theo tiêu chuẩn nhà hàng cao cấp và ngành du lịch có phòng điều hành tour, phòng hướng dẫn du lịch theo tiêu chuẩn lữ hành quốc tế..
- Tài liệu học tập chuyên ngành du lịch: Để đảm bảo phục vụ tốt cho hoạt động dạy và học, các cơ sở đào tạo du lịch, trường cần tăng cường tài liệu học tập đa dạng về thể loại như sách và giáo trình, sách điện tử, đề tài nghiên cứu khoa học, báo, tạp chí tiếng Việt, nguồn học liệu mở.
- Các cơ sở đào tạo du lịch có thể vận dụng tiêu chuẩn VTOS 2013 của Dự án EU đã có sẵn để xây dựng giáo trình học liệu chuyên ngành du lịch, nhà hàng, khách sạn..
- Hai: Sử dụng bộ giáo trình chuẩn tiếng Anh chuyên ngành du lịch..
- Sử dụng các giáo trình Anh văn chuyên ngành du lịch như Tourism English, Hotel English, Restaurant English (của FirstNews), English for cooks (dự án VIE031 là dự án hợp tác giữa chính phủ Việt Nam và chính phủ Luxembourg) để phục vụ trong giảng dạy..
- Tăng cường liên kết đào tạo với doanh nghiệp.
- Sơ đồ tăng cường liên kết đào tạo với doanh nghiệp.
- Để đào tạo chất lượng, tạo đầu ra cho sinh viên, các cơ sở đào tạo nên tăng cường liên kết với các doanh nghiệp để đào tạo được nguồn nhân lực du lịch đảm bảo yêu cầu hội nhập.
- Khi các cơ sở đào tạo liên kết với doanh nghiệp sẽ tăng cường hướng đào tạo thực hành cho người học, học luôn luôn đi đôi với hành, từ đó nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch.
- Các cơ sở đào tạo du lịch liên kết với các doanh nghiệp du lịch quy mô lớn, nhà hàng, khách sạn cao cấp như Park Haiyat, New Word, Sofitel,.
- Doanh nghiệp cùng tham gia đào tạo bằng cách góp ý kiến về xây dựng chương trình đào tạo thông qua việc cung cấp thông tin, phản biện chương trình đào tạo..
- Các cơ sở đào tạo du lịch liên kết với các doanh nghiệp bằng hình thức mời các quản lý doanh nghiệp du lịch, nhà hàng, khách sạn tham gia hội đồng chấm khoá luận tốt nghiệp, đồ án tốt nghiệp, tham gia giảng dạy một số học phần.
- Nhà trường liên kết với các doanh nghiệp bằng hình thức cử giảng viên, cán bộ quản lý đến doanh nghiệp học tập, học hỏi kinh nghiệm hoặc trao đổi những vướng mắc giữa chương trình đào tạo và yêu cầu của thực tế..
- Qua đó, sinh viên sẽ có những định hướng nghề nghiệp rõ ràng, nhận thức đúng đắng về ngành nghề du lịch..
- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo.
- Tăng cường liên kết, hợp tác quốc tế về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch.
- Tạo điều kiện cho cơ sở đào tạo hợp tác song phương và đa phương với các cơ sở đào tạo nước ngoài qua việc tranh thủ chuyển giao công nghệ đào tạo tiên tiến, nguồn hỗ trợ.
- tiếp cận chuẩn đào tạo nghề nghiệp tiên tiến.
- trao đổi sinh viên, nhất là với các cơ sở đào tạo du lịch trong khối ASEAN và khu vực châu Á - Thái Bình Dương..
- Có thể nói rằng công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao là mục tiêu và sứ mệnh của các cơ sở đào tạo..
- Việc nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực du lịch đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế là một vấn đề quan trọng và được thảo luận, bàn bạc trong nhiều năm qua và điều đó càng có ý nghĩa hơn khi Việt Nam gia nhập vào cộng đồng ASEAN.
- Qua phân tích thực trạng nguồn nhân lực phục vụ trong ngành du lịch, một số nguyên nhân tồn tại trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực du lịch trong thời gian qua.
- Cùng với quyết tâm phát triển nguồn nhân lực lực ngành Du lịch Việt Nam, tác giả xin đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch với một niềm ao ước sẽ góp một phần nhỏ vào chiến lược phát triển bền vững nguồn nhân lực chất lượng cao và đưa Việt Nam trở thành một trong những điểm đến hàng đầu trên thế giới..
- [1] ASEAN, 2012, Thỏa thuận công nhận lẫn nhau trong ASEAN về nghề du lịch - sách hướng dẫn cho các cơ sở giáo dục và đào tạo..
- [2] Nguyễn Văn Lưu, 2013, Du lịch Việt Nam hội nhập trong ASEAN, Nxb.
- [3] Kỷ yếu hội thảo (2013), Nguồn nhân lực du lịch và phát triển du lịch Bình Thuận, Đại học Phan Thiết..
- [4] Kỷ yếu hội thảo (2008), Đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch theo nhu cầu xã hội, TP.
- [5] Kỷ yếu hội thảo (2012), Công tác xây dựng tiêu chuẩn quốc gia và quy chuẩn kỹ thuật lĩnh vực du lịch, tiêu chuẩn kỹ năng nghề du lịch Việt Nam, Bộ Văn hóa - Thông tin - Du lịch..
- [7] Đề án (2010), Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch theo nhu cầu xã hội, Bộ Văn hóa - Thông tin - Du lịch..
- [8] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2013), Quy hoạch phát triển nhân lực du lịch Việt Nam đến năm 2020..
- Hà Văn Siêu (2010), Nhu cầu nhân lực du lịch giai đoạn 2011-2020..
- Nguyễn Đình Luận (2015), Sự gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị, Tạp chí Phát triển &.
- [11] Lê Anh Tuấn, Nguyễn Thị Mai Sinh (Chủ biên) (2015), Giáo trình Tổng quan du lịch thuộc Dự án “Tăng cường năng lực nguồn nhân lực ngành du lịch và khách sạn Việt Nam” của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Cơ quan Hợp tác phát triển Luxembourg, NXB Giáo dục Việt Nam.

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt