« Home « Kết quả tìm kiếm

NGƯỜI THĂNG LONG TRẤN GIỮ QUAN ẢI BẠCH ĐẰNG GIANG


Tóm tắt Xem thử

- Đôi nét về quan ải Bạch Đằng giang.
- Sách Đại Nam nhất thống chí chép: "Sông Bạch Đằng ở cách huyện Yên Hưng 5 dặm về phía tây, nguồn từ sông Lục Đầu tỉnh Hải Dương, chảy qua địa giới huyện Thuỷ Đường, chia làm hai chi: một chi do sông Mỹ Giang chảy về phía đông 17 dặm, qua núi Châu Cốc (Hang Son) chảy về phía đông bắc 25 dặm hợp dòng đổ về xã Đoan Lễ làm thành sông Bạch Đằng (phía nam là địa giới huyện Thuỷ Đường, phía bắc là địa giới huyện Yên Hưng), chảy về phía nam đến phía đông bến đò xã Yên Hưng chia ra một chi thông với sông Tranh, còn dòng chính thì chảy chuyển sang phía nam 29 dặm đổ ra cửa biển Bạch Đằng.
- Phần “Khảo về địa dư và lịch sử tỉnh Quảng Yên” của Nam Phong chép: “Sông Bạch Đằng là một con sông lớn nhất tỉnh Quảng Yên, phía đông ngạn thuộc về xã Yên Hưng, tây ngạn thuộc về xã Đoan Lễ huyện Thuỷ Đường (nay là huyện Thuỷ Nguyên).
- Sông Bạch Đằng do sông Giá và sông Đá Bạc hợp lại mà thành.
- Nơi hợp dòng thành sông Bạch Đằng ở khu vực bến đò An Hưng (thuộc xã An Hưng, huyện Yên Hưng xưa) sang xã Đoan Lễ, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng.
- Người xưa gọi ngã ba sông Giá, sông Đá Bạch và sông Bạch Đằng là “họng sông”.
- Sông Bạch Đằng đổ ra biển bằng hai cửa.
- dòng chính dài khoảng 20km, đổ ra biển ở cửa Nam Triệu, xưa gọi là cửa Bạch Đằng.
- Sông Bạch Đằng còn có tên gọi là sông Vân Cừ và sông Rừng.
- Tên gọi của dòng sông có lẽ xuất phát từ đặc điểm sông Bạch Đằng là con sông lớn, đoạn họng sông xưa kia từ Đoan Lễ huyện Thuỷ Nguyên đến Làng Rừng huyện Yên Hưng rộng tới 4km.
- Trừ họng sông xưa kia rộng khoảng 4km, còn lại cả dòng chính và hai chi lưu sông Tranh và sông Rút của sông Bạch Đằng mênh mông nước, nước triều lên cao, dòng sông rộng tới hàng chục km, có đoạn rộng tới 15km.
- Hai bên dòng sông là những cánh rừng gỗ lim, gỗ táu đại ngàn, với những địa danh như Làng Rừng, Đò Rừng, Chợ Rừng, nên sông Bạch Đằng còn gọi là sông Rừng là thế..
- Sông Bạch Đằng là cửa ngõ từ đường biển vào các tỉnh đồng bằng sông Hồng và Kinh thành Thăng Long.
- Từ đường biển vào nước ta bằng đường sông Bạch Đằng có thể theo hai đường: qua vịnh Hạ Long vào sông Chanh, sông Bạch Đằng hoặc từ biển qua cửa Nam Triệu hay còn gọi là cửa Bạch Đằng vào sông Bạch Đằng, rồi theo hệ thống sông Kinh Thầy, sông Hồng và sông Lục Nam đi khắp nơi..
- Trên dòng sông Bạch Đằng đã ba lần quân và dân ta chiến thắng oanh liệt những đoàn quân xâm lược phương Bắc.
- Năm 981, Thập đạo tướng quân Lê Hoàn đánh tan quân Tống, giữ yên bờ cõi, và được nhớ tới nhiều nhất là chiến công thứ ba, chiến thắng Bạch Đằng năm 1288, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ hơn 600 chiến thuyền và hơn 4 vạn quân Nguyên Mông xâm lược..
- Bạch Đằng giang, nơi “đất hiểm”, nơi “khống chế người phương Bắc” xâm lược bằng đường biển, là “quan ải Bạch Đằng giang” của Đại Việt..
- Người Thăng Long ra nơi quan ải.
- Dòng họ Dương xã Cẩm La, thuỷ tổ là Dương Quang Tấn, một trong mười bảy vị Tiên công quê ở Kim Liên, Thăng Long thành có quyển Dương gia thế phả, nội dung có ghi: Gia phả dòng họ được lập vào triều vua Hồng Đức năm thứ ba (1472) do Dương Đình Liên đời thứ hai viết.
- Đến đời thứ năm, thuỷ tổ Dương Quang Tấn ở cùng với bố là hiệu sinh Dương Đình Bảng cư trú tại phường Kim Liên, phủ Hoài Đức, thành Thăng Long.
- gia đình cụ, nên cụ đã cùng 16 cụ khoa bảng trong phường sắm thuyền lập vạn tìm nơi sáng nghiệp khai cơ, đến vùng Hải Đông khai khẩn xã Phong Lưu.
- Theo quyển Vũ tộc phả ký của dòng họ Vũ xóm Cung Đường xã Phong Cốc, thuỷ tổ là Vũ Hồng Tiệm, do ông Vũ Trọng Sửa 65 tuổi, đời thứ 17, ở xóm đình cung cấp.
- Cuốn gia phả này chép lại từ thời Nguyễn, có ghi gia phả dòng họ được lập vào năm Cảnh Thịnh nguyên niên (1793) do cụ Vũ Bá Duyên đời thứ 9 của dòng họ viết từ đời thứ nhất đến đời thứ 7 gọi là quyển Bản gia tôn phổ.
- Đến năm Tự Đức thập niên (1857), cụ Vũ Trọng Nghĩa đời thứ 10 viết tiếp từ đời thứ 8 đến đời thứ 10, sau đó cụ Vũ Trọng Thịnh viết tiếp từ đời thứ 11 đến đời thứ 12.
- Đến năm Thành Thái tam niên (1891), cụ Vũ Trọng Sửu đời thứ 13 kết hợp cả ba quyển trước chép lại thành quyển Vũ gia phả ký.
- Quê ở phường Kim Liên, phủ Hoài Đức, thành Thăng Long.
- Vào thời Thiệu Bình mở rộng phủ cư vào đất nội phường, nên cụ đã cùng 16 cụ rời bỏ quê cũ tìm nơi thiên thời địa lợi để sinh sống lập nghiệp, đến vùng Hải Đông khai khẩn lập xã Phong Lưu”..
- Một cuốn chép lại năm Tự Đức thứ 33 (1880), một cuốn chép lại vào năm Bảo Đại thứ 9 (1934) đều ghi lại: Gia phả dòng họ Vũ Tam Tỉnh được lập vào đời thứ 6 do hiệu sinh Vũ Đình Lân đời thứ 6 viết từ vị thuỷ tổ đến đời thứ 6.
- Giám sinh Vũ Đình Thường, giáo thụ Vũ Đình Sách đời thứ 7 viết tiếp.
- Văn trưởng Vũ Viết Hằng đời thứ 9, văn trưởng Vũ Đình Đĩnh đời thứ 10 viết tiếp.
- Chánh tổng Vũ Đình Quang đời thứ 10 soát lại và giữ.
- Cửu phẩm Bá hộ, Thất phẩm Thiên hộ Vũ Đình Vịnh đời thứ 11 viết tiếp.
- Ngày 15 tháng 9 năm Khải Định thứ nhất (1916) chép tiếp đến đời thứ 12.
- Ngày 18 tháng 2 năm Bảo Đại thứ chín (1934) khoá sinh Vũ Đình Lợi đời thứ 12 chép lại và viết tiếp.
- Năm 1984, Hội đồng gia tộc dòng họ chép tiếp đến đời thứ 18.
- Hai cuốn gia phả đều ghi thuỷ tổ quê ở phường Kim Liên, Thăng Long thành.
- Gia đình cụ Thuỷ tổ có ba anh em, anh cả Vũ Nhất Công, thứ hai là Vũ Song, em út là Vũ Tam Tỉnh cùng với 15 cụ Tiên công khác xuống vùng cửa sông Bạch Đằng khai canh lập làng.
- Bia Phong Lưu tứ xã Hồ Mạch ở miếu Tiên Công xã Cẩm La huyện Yên Hưng ghi: “Tứ xã Phong Lưu có một cái hồ trên thượng đồng, tương truyền xưa kia, khi các bậc Tiên công bắt đầu mở mang làng xóm, đến vùng đó thấy có tiếng ếch kêu trong hồ, cho rằng có nước ngọt, bèn dừng lại đắp đê ngăn biển mở rộng.
- Cái hồ thiên nhiên đó là do trời mang đến cho các Tiên công để đào giếng cày ruộng, vậy con cháu sau này gặp hạn khơi dưới đó thấy có nhiều đá to, uống nước đó ngọt như nước cam tuyền mới biết đó là nơi phát nguyên của các bậc Tiên công..
- Qua khảo cứu 13 cuốn gia phả chữ Hán ở 13 dòng họ của 17 vị Tiên công, quê ở Kim Liên, Thăng Long.
- của quan ải Bạch Đằng giang như sau: Đảo Hà Nam huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh xưa kia là một bãi triều lớn ở cửa sông Bạch Đằng.
- Vào đời vua Lê Thái Tông, niên hiệu Thiệu Bình 1434 đến thời vua Lê Hiến Tông (1498 - 1504), có nhiều nhóm dân cư ở kinh thành Thăng Long và vùng đồng bằng sông Hồng, sông Thái Bình đến vùng đất này quai đê lấn biển, khẩn hoang đất đai lập làng, tạo nên khu đảo Hà Nam trù mật như ngày nay.
- Những người có công đầu tiên mở đất lập làng được nhân dân trong vùng gọi là “Tiên công”.
- Các nhóm Tiên công khai khẩn Hà Nam năm 1434 theo hai phương thức: Phương thức khai canh tập thể, tức nhiều gia đình hợp lại cùng quai đê lấn biển lập làng, ruộng đất chia đều cho từng suất đinh tham gia khai khẩn, ba năm đổ chương chia lại ruộng đất.
- Phương thức khai canh thứ hai là khai canh theo kiểu “thủ lĩnh”, tức: các Tiên công chiêu tập người, chỉ huy họ quai đê lấn biển lập làng..
- Khai canh theo phương thức tập thể là 17 vị Tiên công là người cùng quê ở phường Kim Hoa (nay là phường Kim Liên), huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, phía nam thành Thăng Long (nay là Hà Nội).
- Họ là những người lao động, những kẻ sỹ, sống chủ yếu bằng canh tác nông nghiệp và đánh cá ven hồ, ven sông Kim Ngưu ở Thăng Long.
- Mười bảy vị Tiên công cùng gia đình xuôi theo dòng sông Hồng ra cửa sông Bạch Đằng cắm thuyền tìm đất.
- Lúc đầu họ sinh sống trên thuyền bằng nghề đánh bắt cá, dãi chài phơi lưới trên các đượng đất cao trên triều ở vùng cửa sông Bạch Đằng.
- Mười bảy vị Tiên công quyết định cùng gia đình lên bãi triều này khẩn hoang đất đai, cải tạo thành ruộng lúa, lập làng, vừa trồng lúa vừa đánh bắt hải sản.
- Đầu tiên lập nên phường Bồng Lưu, sau đổi thành xã Phong Lưu gồm ba thôn: Phong Cốc, Cẩm La, Yên Đông.
- Thuở mới khai hoang lập đất, lập làng, các Tiên công chưa phải đóng thuế cho triều đình.
- Các Tiên công thề nguyền với nhau là không khai tên họ thật, đề phòng nếu ai không có con nối dõi, thờ cúng, sẽ được những người trong các gia đình khai hoang đầu tiên này làm cúng giỗ.
- Vì thế về sau các con cháu của họ không biết tên các cụ nên đã gọi chung là "Thập thất Tiên công khai cơ lập ấp".
- Vì không biết tên huý, cũng không biết rõ ngày cúng kỵ nên khi cúng chỉ khấn chung là "Thập thất Tiên công khai sáng đồng điền lai lâm thượng hưởng".
- Khoảng đến đời thứ 6 (1630 - 1690) con cháu các dòng họ mới viết gia phả, lập từ đường thờ thuỷ tổ và các thế tổ dòng họ.
- Mười bảy vị Tiên công đã được vua Khải Định năm thứ 9 tặng sắc phong Khai canh gồm: Vũ Song (hiệu sinh).
- Phường Bồng Lưu ban đầu thành xã Phong Lưu gồm 3 thôn: Cẩm La, Phong Cốc và Yên Đông..
- Cũng vào khoảng năm 1434, hai Tiên công là Hoàng Lung, Hoàng Linh, (Hoàng Nông, Hoàng Nênh) quê ở vùng Trà Lũ (có thể thuộc vùng Trà Lý của tổng Đại Hoàng, huyện Chân Định, phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình) chiêu tập người đến phía đông xã Phong Lưu quai đê lấn biển khai canh theo phương thức khai canh có thủ lĩnh, lập nên xứ Bản Động.
- Vào thời vua Lê Thánh Tông (1472), xứ Bản Động đổi thành thôn Trung Bản và sáp nhập với xã Phong Lưu thành nhất xã tứ thôn: Yên Đông, Phong Cốc, Cẩm La, Trung Bản.
- (1890) xã Phong Lưu được chia thành bốn xã: xã Phong Cốc, xã Cẩm La, xã Yên Đông, xã Trung Bản iv.
- Vào khoảng năm 1434 - 1442, ở ấp Trà Lũ, tổng Đại Hoàng, huyện Chân Định, phủ Kiến Xương có các họ: Hoàng, Vũ, Trần, Nguyễn gốc từ Thăng Long lánh nạn Hồ Quý Ly về sinh tụ tại Trà Lũ, lập các làng Văn Lang, Vũ Lăng, Trà Lũ, Đại Hoàng, Tiểu Hoàng.
- Các huyện ở đầu nguồn và ven biển thuộc Nghệ An cũng bị thuỷ tai.” Bấy giờ Tiên Công Hoàng Kim Bảng gốc họ Hoàng ở tổng Đại Hoàng đã cùng với người em kết nghĩa là Đồng Đức Hấn thấy vùng cửa sông Bạch Đằng có người kinh thành xuống quai đê lập làng trù phú, bèn chiêu tập người quai đê lấn biển khai lập thôn Vị Dương, sau thành xã Vị Dương theo phương thức khai canh có “thủ lĩnh” v.
- Cũng vào khoảng đời vua Thái Tông niên hiệu Thiệu Bình, hai Tiên công Đỗ Độ và Đào Bá Lệ (quê quán chưa rõ) chiêu tập người đến vùng đất phía đông xã Phong Lưu quai đê lấn biển lập nên xã Lương Quy, sau này đổi thành xã Lưu Khê.
- Khoảng năm 1498 – 1504, hai anh em Tiên công Phạm Nhữ Lãm và Phạm Thanh Lảnh quê ở Quang Lang (Hà Nam - Hải Dương) cùng một số người quai đê lấn biển lập nên xã Hải Triều và xã Vị Khê..
- Như vậy, trong bốn nhóm Tiên công đến vùng đất này khai canh vào năm 1434 đến năm 1442, trừ nhóm Tiên công Đỗ Độ và Đào Bá Lệ lập nên xã Lưu Khê là chưa rõ quê quán còn lại ba nhóm Tiên công (21 vị) đều có gốc gác Thăng Long thành.
- Đặc biệt là nhóm 17 vị Tiên công cùng với gia đình ra đi từ phường Kim Liên, Thăng Long thành lập nên xã Phong Lưu.
- Bấy giờ xã Phong Lưu là đại xã.
- Xã Phong Lưu có 1.599 mẫu, 8 sào, 13 thước, 8 tấc ruộng ở xứ Đông Tây và Bắc, đường đê 997 trượng, 5 thước, 3 tấc.
- Văn hoá Thăng Long nơi quan ải Bạch Đằng giang.
- Thực tế ở vùng tứ xã cho thấy: đến nay, các thuần phong mỹ tục trong lễ nghi, hội hè, tang ma, cưới xin, trong ứng xử với thiên nhiên và cộng đồng làng xóm thuở xa xưa ở Thăng Long thành giờ vẫn còn nguyên vẹn ở xã Phong Lưu xưa (nay là xã Cẩm La, xã Phong Cốc, xã Phong Hải và thôn Yên Đông, xã Yên Hải) nơi cửa biển đông bắc của Tổ quốc: Phải chăng đó chính là “Văn hoá Thăng Long” cách đây gần 600 năm vẫn còn hiện hữu ở nơi quan ải Bạch Đằng giang..
- Xã Phong Lưu có tới ba ngôi đình được xây dựng vào thế kỷ XVII để thờ thần hoàng của từng làng, quy mô to rộng, cổ kính vào loại bậc nhất trong cả nước: đình Phong Cốc, đình Yên Đông, đình Cẩm La.
- Người Thăng Long chuộng học hành, mỗi làng nơi đây đều có một văn từ để thờ Khổng Tử và những người học hành đỗ đạt, là nơi chăm lo cho việc học của làng.
- Gia phả của dòng họ Nguyễn An Đông ghi lại từ đời thuỷ tổ đến đời thứ chín đã có 26 người học ở Quốc Tử Giám Thăng Long..
- Nhà ở, một đặc trưng văn hoá Thăng Long cổ xưa hiện hữu ở vùng cửa biển.
- lễ chạp tổ và ra cỗ họ ở các từ đường để truy ơn tổ tiên, nhớ về cội nguồn nơi Thăng Long phát tích.
- Nhưng xã Phong Lưu của người Thăng Long luôn là đại xã, là xã trung tâm, xã “Kỳ thái phong biên”:.
- Thực hiện nghi lễ này, 8 xã trong khu đảo phải rước thần hoàng của làng mình về “đày” ở sân đình Cốc của xã Phong Lưu để làm lễ đảo vũ.
- Đình Cốc trở thành đình trung tâm, xã Phong Lưu thành xã trung tâm của đảo..
- Bia ở đình Cốc ghi lại nhiều lần khu đảo Hà Nam bị bão, sóng biển phá vỡ đê, các xã phải họp để cử xã đắp đê hàn thuỷ, bao giờ xã Phong Lưu cũng phải đảm đương.
- Với những kinh nghiệm đắp đê trị thuỷ sông Hồng của người Thăng Long như “cắm say” để hạp long hàn thuỷ,.
- Người Thăng Long đánh giặc ở nơi quan ải Bạch Đằng giang.
- Hà Nam con mắt biển, con mắt Bạch Đằng, là yết hầu đường thuỷ của đất nước, là quan ải Bạch Đằng giang.
- Sau ba lần đánh tan quân xâm lược phương Bắc, cửa sông Bạch Đằng chưa phải đã yên, từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, nạn giặc cướp hoành hành một dải bờ biển đông bắc.
- Tháng 5 năm 1863, chúng dùng 2 tàu Tây Dương, 10 tàu nước Thanh, 200 tàu của cướp biển người Việt vào sông Bạch Đằng phá đê Hà Nam chiếm lũy nhất tự ở Hà Nam để đồn trú cướp phá Hà Nam và trấn lỵ Quảng Yên.
- Vua Tự Đức đã nhiều lần ban thưởng cho các xã ở Yên Hưng trong đó có xã Phong Lưu bằng sắc “Nghĩa dân”, riêng xã Phong Lưu còn được vua Tự Đức tặng bằng “Nghĩa dân khả phúng” (người dân có nghĩa đáng khen).
- Trong gia phả các họ Tiên công ở xã Phong Lưu còn ghi lại nhiều người được triều đình nhà Nguyễn tặng bằng sắc, ban hàm tước: “Bang biện Tổng vụ thất phẩm (hoặc bát phẩm, cửu phẩm) Bá hộ” do đã chiêu mộ các nam đinh trai tráng, trang bị gươm giáo và súng đạn để bảo vệ xóm làng..
- Lý giải một cách thuần tuý về việc người Thăng Long đi mở đất khai canh ở cửa sông Bạch Đằng: Vua mở rộng kinh thành nên các cụ hiến đất và ra đi tìm vùng đất mới nghe chừng chưa đủ sức thuyết phục.
- Nên để trụ được ở cửa sông Bạch Đằng, người Thăng Long phải đa nghề: vừa cấy lúa, vừa đánh cá, vừa làm nghề sơn tràng, nghề vận tải, nghề buôn bán<.
- Thậm chí phía bắc, chỉ qua dòng sông Chanh còn nhiều vùng đất hoang có nước ngọt, có ruộng, có đất thổ cư cao ráo, nhưng người dân Thăng Long lại trụ lại ở giữa cửa sông, cửa biển, ở nơi địa hình là bãi biển.
- Nhưng đấy là đi tìm câu hỏi vì sao người Thăng Long có mặt ở quan ải Bạch Đằng giang..
- Điều quan trọng là người Thăng Long đã hiện diện và trấn giữ quan ải Bạch Đằng giang gần 600 năm nay là một hiện hữu.
- Người Thăng Long ở đây có vai trò trung tâm, vai trò tiên phong trong công cuộc chống giặc, bảo vệ quê hương, đất nước.
- Điều quan trọng nữa không kém vai trò trấn giữ nơi quan ải Bạch Đằng của người Thăng Long là, ở đây, hiện còn bảo lưu giữ khá nguyên vẹn văn hoá cổ truyền của người Kinh kỳ cách đây 600 năm.
- Vì vậy, văn hoá vật thể và phi vật thể của cư dân vùng tứ xã trên quan ải Bạch Đằng giang, nếu được bảo tồn, tôn tạo và phát huy tác dụng sẽ phục vụ rất tốt cho du lịch về nguồn, phục vụ tốt cho hoạt động xây dựng đời sống văn hoá cơ sở.
- Mặt khác bảo tồn phát huy tác dụng của văn hoá cư dân vùng quan ải Bạch Đằng này sẽ đóng góp vào sự phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hoà bình..
- vi Bia Miếu Tiên công thôn Trung Bản, xã Liên Hoà, Yên Hưng, Quảng Ninh..
- vii Có thể tham khảo thêm bài diễn ca sáng nghiệp được lưu truyền trong vùng tứ xã để hình dung văn hóa Thăng Long nơi quan ải.
- Chiếu hoa ban xuống dân lành, Di cư mở đất xây thành Thăng Long..
- Chỉ còn chung một Miếu thờ Tiên công.