« Home « Kết quả tìm kiếm

Cái cô đơn mang tên Xuân Diệu


Tóm tắt Xem thử

- Cái cô đơn mang tên Xuân Diệu Cái cô đơn mang tên Xuân Diệu.
- Ngày nay, người ta nói nhiều đến nỗi cô đơn: cô đơn định mệnh, cô đơn bản thể.
- Octaviopaz - tác giả đã từng đoạt giải Nobel văn chương coi "cái cô đơn là đặc trưng cuối cùng của thân phận con người" và nhấn mạnh "Con người là sinh vật duy nhất cảm thấy mình đơn côi.
- hay Gabriel Garcia Marquez đong đếm cái cô đơn bằng chiều dài của cả một thế kỷ - "Trăm năm cô đơn".
- mà, trong nhịp sống quay cuồng thời hiện tại, con người càng thấm thía nỗi cơ đơn, càng chồng chất thêm nhiều lẻ loi, đơn độc..
- Cách đây nửa thế kỷ, trong Những bước đường tư tưởng của tôi1, nhằm cắt nghĩa âm điệu "buồn tịch mịch trong những điều ấm nóng reo vui" của thời Thơ thơ và Gửi hương cho gió - trước Cách mạng tháng Xuân Diệu viết: "Những điều kiện của gia đình và xã hội đã làm tôi buồn sẵn, lại học vào một nền văn học nặng buồn bã, than thở, bi quan.
- Đó là những căn nguyên khiến thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám 1945 tuy không ảo não thê thiết như Huy Cận, không lâm vào bi kịch số phận đớn đau như Hàn Mặc Tử, không chơ vơ u uất như Vũ Hoàng Chương.
- Có những lúc nhà thơ tự gọi mình là "chàng sầu", có lúc ông lại hoá thân vào hình ảnh "con nai chiều", "con chim không tổ", "người kỹ nữ", núi non (Núi xa, Hy Mã Lạp Sơn.
- Cùng ngơ ngơ ngác ngác trước cuộc đời nhưng nếu như "con nai vàng" của Lưu Trọng Lư chí ít còn bước đi để lại đằng sau tiếng chân xào xạc còn "con nai chiều" của Xuân Diệu không thể cất chân vì hoàn toàn bị bủa vây "chân vướng rễ cây, lòng vướng muôn dây" giữa rừng chiều tội nghiệp..
- Trong hai bài thơ mượn cảnh núi non để mô tả sự cô đơn "hoá thạch", cô đơn bất biến của lòng mình thì có lẽ bài Núi xa được viết vào thời kỳ đầu chớm xuất hiện trạng thái cô đơn:.
- Còn bài Hy Mã Lạp Sơn viết vào thời kỳ sau, là cao điểm của sự cô đơn báo hiệu những khủng hoảng tinh thần của "cái tôi" Xuân Diệu nói riêng và có thể là cả trào lưu Thơ mới nói chung "khi một cá nhân tự giác về nó, say sưa về nó, thấy nó là cả một vũ trụ, đồng thời, nó cũng cảm thấy cô đơn" (Trả lời phỏng vấn báo Đất Việt - tháng 1-1986).
- Người ta đã nói nhiều đến sự hiện diện và vai trò đặc biệt quan trọng của cái tôi - cái bản ngã cá nhân đối với quá trình hình thành, chiếm lĩnh và thắng thế của thơ ca lãng mạn 1932-1945 trên thi đàn dân tộc.
- Và chúng ta cũng biết Xuân Diệu được mệnh danh là "nhà thơ số một của cái tôi", là người quyết liệt nhất trong việc khẳng định những giai điệu cá nhân.
- Với ông, sự tồn tại của cái tôi mang một ý nghĩa tuyệt đối:.
- Kể cũng lạ, con người đã từng khiêm nhường tự ví mình là "cây kim bé nhỏ" mà vạn vật cuộc đời là "muôn đá nam châm" giờ tự nâng mình lên độ cao chót vót và gửi xuống thế gian bức thông điệp hết sức lạnh lùng.
- Càng leo cao lên đỉnh tháp của "cái tôi", nhà thơ càng cảm thấy rợn ngợp vì cô đơn:.
- Xuân Diệu đặc biệt nổi trội ở những câu thơ diễn tả cảm giác mà Hoài Thanh gọi đó là "những dòng chữ lạ lùng".
- Sự "lạ lùng" đó thể hiện bằng những chuyển đổi nỗi cô đơn trong tâm hồn thành cô sầu trong cảm giác, từ những buốt giá tâm trạng đến những chuyển động thân thể:.
- Tột đỉnh của sự cô đơn là lúc tự mình phải đối diện với chính lòng mình: Lòng kỹ nữ cũng sầu như biển lớn / Chớ để riêng em phải gặp lòng em.
- cũng diễn tả nỗi cô đơn bằng độ tinh nhạy của trực cảm, bằng những nhát khía buốt lạnh xuyên qua "ngũ quan" ngấm vào tâm khảm:.
- thơ Xuân Diệu mà tiêu biểu nhất là Lời kỹ nữ đã xoáy sâu vào tâm thức thời đại và bi kịch tinh thần của một thế hệ thi nhân mà Xuân Diệu là người cảm nhận một cách đủ đầy và thấm thía nhất..
- Bên cạnh việc phản ánh thực trạng tinh thần xót đau, quằn quại, cái tâm thế cô đơn cùng cực của cái tôi cá nhân tiểu tư sản với nỗi "sầu cốt tuỷ", thơ Xuân Diệu tập trung vào một khía cạnh bi kịch tinh thần lớn hơn, nếu không muốn nói là lớn nhất của đời ông: Đó là nỗi cô đơn của một bi kịch tình yêu.
- Ai có thể ngờ người lĩnh xướng số một của dàn đồng ca tình ái 1932-1945 lại là người luôn luôn cô đơn.
- Thời kỳ đầu của Thơ thơ, Xuân Diệu còn được an ủi bởi niềm vui hò hẹn, gặp gỡ, được cùng nhau sánh bước dưới đêm trăng.
- Càng về sau, Xuân Diệu chỉ còn trơ trọi đơn chiếc một mình.
- Những câu thơ vang lên điệp khúc "mời yêu" tha thiết "Mở miệng vàng và hãy nói yêu tôi / Dầu chỉ là trong một phút mà thôi" hiển hiện bên cạnh những nhịp đập nặng nề của một con tim mệt mỏi, cô đơn: "Bao nhiêu sầu, ôi sầu biết bao nhiêu / Khi yêu tình khi theo mãi tình yêu".
- Có thể thấy từ Thơ thơ đến Gửi hương cho gió, tình yêu trong thơ Xuân Diệu càng lún sâu vào trạng thái cô đơn.
- Vào giai đoạn cuối cùng trước 1945, Xuân Diệu đã buồn bã thừa nhận: "Những năm cái xã hội Việt Nam thật là bế tắc, mình cảm thấy ngột ngạt, tâm hồn đau buốt" (Trả lời phỏng vấn báo Đất Việt).
- Khép lại một chặng đường thơ với những "vọt tràn lãng mạn" và "những hơi tiếng của chủ nghĩa tượng trưng", những "cái thú của sự buồn rầu", "những êm dịu của niềm cô đơn vắng vẻ", Xuân Diệu đã ý thức được một cách sâu sắc những khoảng trống không thể bù đắp bằng sự cắt nghĩa những bài học tình yêu của chính đời mình.
- Ẩn sau tâm hồn nồng nàn si mê của Xuân Diệu là một nỗi cô đơn thăm thẳm.
- Nếu làm một phép so sánh "cùng kênh" giữa Xuân Diệu và Huy Cận - nhà thơ của nỗi "sầu buồn vạn kỷ.
- người ta cảm thấy rằng Huy Cận dễ buồn hơn nhưng Xuân Diệu dường như cô đơn hơn.
- Và một lần nữa, Xuân Diệu lại hiện ra như một gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ mới bởi ông đã đi gần đến giới hạn cuối cùng của sự cô đơn.
- Bằng những nỗi đau riêng tư của thân phận cá nhân, Xuân Diệu đã bộc lộ khá đầy đủ nội dung cảm hứng về cái cô đơn - một hội chứng tinh thần vô phương cứu chữa của trào lưu thơ ca lãng mạn 1932-1945..
- Cách mạng Tháng 8 - 1945 bùng nổ, Xuân Diệu đã lựa chọn một cách dễ dàng và nhanh chóng cho mình con đường sáng tạo với những bước hành trình nghệ thuật mới.
- Vốn tính sôi nổi, yêu đời, đầy nhiệt tâm trước cái mới, Xuân Diệu đã hoà nhập say sưa vào làn sóng cách mạng và tìm thấy ở đó sức cuốn hút mạnh mẽ.
- Từ một nhà thơ của tháp ngà tình yêu, ông đã đến với cuộc đời rộng lớn và tắm mình trong bầu không khí thiêng liêng của những ngày lập quốc.
- Trong đội ngũ các nhà thơ lãng mạn, Xuân Diệu là người đầu tiên cất tiếng ngợi ca nền chuyên chính cộng hoà non trẻ bằng hai tập thơ Ngọn quốc kỳ - 1945 và Hội nghị non sông - 1946.
- Cuộc cách mạng "long trời lở đất ấy" đối với lớp văn nghệ sĩ tiền chiến nói chung và Xuân Diệu nói riêng thực sự là một cuộc "tái sinh mầu nhiệm".
- Song, qua đi sự tung hô nồng nhiệt và niềm vui bất tuyệt của những ngày đầu cách mạng thành công, cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ thực sự là một chặng đường thử thách mới đối với nhà thơ.
- Có lúc Xuân Diệu đã không ngại ngần tự mổ xẻ bản thân hết sức chân thành: "Càng đi sâu vào cách mạng, sự sáng tác càng gian nan.
- Bây giờ những con người "vô học" cũ nhờ cách mạng họ đã có học, họ đã đọc sách và họ biết cả phê bình nữa....
- tôi không thể "kháng chiến vui vẻ, cách mạng vui vẻ" nữa.
- Tự tôi mình theo tinh thần của giai cấp vô sản, gay lắm! Tôi đâm ra hờn tủi đối với những người đấu tranh với tôi.
- Kỳ tình tôi vẫn biết đứng chỗ cũ không thể được nữa, tuy nhiên, tinh thần bất ổn, vẫn gần với quá khứ, vẫn xa vời vợi với tương lai - cứ chạy sang bên này rồi lại chạy sang bên kia, thật là đau đớn"2.
- Đó là tâm trạng thực của Xuân Diệu vào những năm đầu đi theo cách mạng.
- Trong thâm tâm, ông rất muốn đoạn tuyệt, dứt bỏ con người cũ, con người quá khứ để hoà nhập với đời sống công nông binh chống Pháp.
- Có thể một phần do áp lực của bầu không khí "phản tỉnh", cũng có thể tự trong thâm tâm, Xuân Diệu cảm thấy sự "yêu đương đắm đuối" của mình đã trở nên lạc lõng với đời sống kháng chiến vốn đòi hỏi con người phải biết chịu đựng và hy sinh (đó là lý do cắt nghĩa vì sao suốt 9 năm ròng sống và hoạt động văn hoá văn nghệ ham mê tại chiến khu Việt Bắc, Xuân Diệu hiếm có thơ tình, chính xác hơn là ít công bố thơ tình).
- Cùng với thái độ quyết liệt từ bỏ "con người quá khứ đã ra ma" của Tế Hanh, con người "u mê lạc lối" của Chế Lan Viên.
- Hoà bình lập lại (sau 1954), Xuân Diệu trở về Hà Nội - Nhà ta 24 cột cờ.
- một lần nữa, nhà thơ lại mang cái say nồng của tâm hồn để đi vào cuộc sống mới với sự kết hợp nhuần nhị giữa nhiệt hứng công dân và sứ mệnh nghệ sĩ.
- Đây là thời kỳ chúng ta nghe nói nhiều đến cái "tôi" và cái "ta", đến sự kết hợp giữa cái tôi riêng và cái ta chung của thời đại.
- Xuân Diệu cũng đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong đời thơ của mình bằng tập thơ với cái tên mang tính "luận đề": Riêng chung.
- Với tập thơ này, mối quan hệ giữa cái tôi cá nhân nghệ sĩ với tập thể cộng đồng, nhân dân, đất nước coi như đã giải quyết xong.
- Nhưng cuộc đấu tranh tư tưởng trong mỗi cá thể thi nhân để đi từ cái riêng đến cái chung, từ chân trời của một người đến chân trời của nhiều người đối với bản thân Xuân Diệu vẫn còn nhiều thách thức.
- Mặc dù ông cương quyết chặt cái bùi ngùi, lánh xa phần yếu mềm của con người tiểu tư sản cũ, mở rộng đôi cánh tâm hồn để đón gió thổi vào từ hai phía, thay đổi "tư thế trữ tình" và thường xuyên di chuyển các "điểm nhìn nghệ thuật.
- Cái đau trong cõi tinh thần.
- Là một nhà thơ tài năng vào bậc nhất của thơ hiện đại Việt Nam, một người cầm bút lịch lãm và uyên bác, một diễn giả hùng biện và lôi cuốn, song Xuân Diệu không có cái tính toán nước đôi, cái tỉnh táo của những người khôn ngoan.
- Chính vì vậy, trong cuộc đời hoạt động sáng tạo cực kỳ sống động và phong phú của mình, Xuân Diệu đã gặp phải những thời kỳ sóng gió mà ám ảnh nhất trong tâm trí của nhiều người có lẽ là vụ "cãi vã" "mắt xanh mắt thịt" chung quanh tập thơ Từ ấy của Tố Hữu.
- Hơn ai hết, Xuân Diệu đã là người đi đầu trong việc khẳng định vai trò, "hương vị" của cái "individu", cái bản ngã cá nhân "trong mùa tập thể " (chữ dùng của Chế Lan Viên) và đặt đúng vị trí của Thơ mới trong "văn mạch dân tộc".
- Dư âm của cuộc tranh luận gay gắt ấy đã được Xuân Diệu khái quát bằng một hình ảnh độc đáo, ấn tượng và có phần "đao búa": Dao có mài mới sắc! Và người mài dao lẽ nào chỉ một mình Xuân Diệu....
- Nỗi cô đơn của nghệ sĩ lại càng "cũ xưa như trái đất".
- Đi tìm cái cô đơn mang tên Xuân Diệu, chúng ta cũng cần xem xét những yếu tố "ngoài văn bản.
- Những phân mảnh khác nhau đó đã giúp chúng ta hình dung đủ đầy chân dung con người Xuân Diệu.
- Người thơ ấy mà "không chịu" cô đơn mới thực lạ lùng!.
- Bản tham luận của chúng tôi chỉ là những nét phác thảo, những chấm phá về một nhà thơ đã toả bóng xuống nửa thế kỷ thơ hiện đại Việt Nam.
- Chắc chắn là còn nhiều bí ẩn trong con người Xuân Diệu mà chúng tôi không thể khám phá vì bất lực.
- Xin được xem đây là một sự bày tỏ "đến tận cùng chân thật" tình cảm của người viết đối với một nhà thơ mà mình vô cùng yêu mến và ngưỡng mộ.
- Tự bao giờ, cái tên Xuân Diệu đã trở nên gần gũi và thực sự là một phần không thể thiếu trong sự nghiệp cũng như đời sống tinh thần của riêng tôi.