« Home « Kết quả tìm kiếm

Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay


Tóm tắt Xem thử

- ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG LĨNH VỰC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY ThS.
- Đào tạo nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn trong sự nghiệp đổi mới.
- Khoa học xã hội và nhân văn (KHXH và NV) có nhiệm vụ nghiên cứu những quy luật hình thành và phát triển của xã hội và con người, của mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội.
- Vì vậy KHXH và NV ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển và tiến bộ xã hội của mỗi quốc gia.
- Ở Việt Nam hiện nay, KHXH và NV là khái niệm chung bao quát nhất được chỉ tất cả các ngành khoa học nghiên cứu về quan hệ giữa con người với con người, con người và xã hội, cả quan hệ vật chất và tinh thần.
- Nguồn nhân lực là một trong những nguồn lực quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của tổ chức.
- Tất cả các nước trên thế giới nếu phát triển bền vững đều quan tâm đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
- Nguồn nhân lực là một bộ phận quan trọng tạo ra giá trị vật chất và giá trị văn hóa cho tổ chức.
- Trong quản lý nguồn nhân lực, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có vị trí quan trọng.
- Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nhằm mục đích phát huy được hết khả năng tiềm ẩn trong mỗi con người, góp phần tăng cường sức mạnh và đóng góp của cá nhân cho tổ chức, cho quốc gia.
- Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực KHXH và NV ở nước ta hiện nay góp phần hình thành con người và nguồn nhân lực với tư cách là chủ thể của xã hội, có trình độ học vấn mang đậm tính nhân văn và các giá trị văn hoá tốt đẹp, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới đất nước.
- Theo tác giả, nguồn nhân lực trong lĩnh vực KHXH và NV được hiểu là tập hợp những người tham gia vào các hoạt động nghiên cứu, đào tạo và phát triển khoa học xã hội và nhân văn.
- Với cách hiểu trên, nguồn nhân lực trong lĩnh vực KHXH và NV bao gồm.
- Lực lượng nghiên cứu khoa học chuyên nghiệp: Nhân lực trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn với chức năng nghiên cứu sáng tạo được gọi bằng nhiều tên khác nhau như là nhà nghiên cứu hay nhà khoa học.
- Họ khác nhau về trình độ, chức danh, chuyên môn và thường làm việc ở các tổ chức nghiên cứu khoa học.
- Lực lượng giảng dạy được đào tạo bậc cao: Đây là lực lượng đông đảo gồm những người có trình độ đại học trở lên.
- Lực lượng các nhà quản lý Lực lượng này gồm các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu làm công tác quản lý, điều hành hoạt động KHXH và NV ở các cơ quan đảng.
- các tổ chức hiệp hội trong lĩnh vực KHXH và NV.
- Sự nghiệp đổi mới ở nước ta đặt ra cho KHXH và NV rất nhiều vấn đề lý giải: thế nào là phát triển bền vững.
- KHXH và NV không đơn thuần là tìm ra các luận cứ, giải pháp để phục vụ phát triển kinh tế mà còn phải trả lời được nhiều vấn đề chính trị - xã hội và văn hoá liên quan đến yếu tố con người và có quan hệ mật thiết với phạm trù chất lượng của quá trình phát triển.
- Ngược lại sự nghiệp đổi mới, quá trình CNH, HĐH của đất nước là “tiền đề thực tiễn cần thiết” cho sự phát triển của KHXH và NV nói chung và cho quá trình đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực này nói riêng.
- Sự nghiệp đổi mới đã cung cấp những thực tiễn sinh động, những kinh nghiệm lịch sử để quá phát huy tiềm năng nguồn nhân lực trong lĩnh vực KHXH và NV.
- Tận dụng tốt những cơ hội, vận hội đó để phát triển được coi là yêu cầu cấp thiết, là nhiệm vụ hàng đầu của nguồn nhân lực trong lĩnh vực KHXH&NV trong giai đoạn tới.
- Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực KHXH và NV bên cạnh những thành tựu nhất định như: Quy mô đào tạo không ngừng tăng lên.
- đa dạng hoá các hình thức đào tạo, bậc ngành đào tạo.
- nội dung, chương trình đào tạo từng bước được đổi mới, nâng cao chất lượng, đảm bảo tính khoa học, hiện đại, tính thực tiễn…vẫn còn những bất cập: chưa có chiến lược đào tạo, kế hoạch đào tạo dài hạn cũng như quy định, quy chế đào tạo rõ ràng, chủ yếu kế hoạch mang tính ngắn hạn, dựa trên chủ trương của cấp trên.
- nhu cầu đào tạo là rất lớn nhưng khả năng đào tạo các cơ sở đào tạo lại chưa đáp ứng được đặc biệt là cơ cấu ngành đào tạo trên đại học.
- nội dung chương trình đào tạo còn chưa đổi mới.
- quá trình kiểm kiểm tra, đánh giá, hiệu quả của quá trình đào tạo còn thấp.
- nhìn chung là chất lượng đào tạo còn nhiều bất cập với thực tiễn, chưa đáp ứng nhu cầu của thực tiễn.
- Nguyên nhân của những hạn chế trên là: Công tác đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực KHXH và NV chưa được nhận thức đúng đắn.
- chưa gắn công tác đào tạo với công tác quy hoạch, sử dụng, đãi ngộ, đánh giá nhân lực.
- điều kiện tài chính, vật chất chưa đảm bảo cho quá trình đào tạo.
- quá trình hợp tác quốc tế trong đào tạo nguồn nhân lực chưa tương xứng với yêu cầu của quá trình hội nhập.
- Một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn.
- Nâng cao nhận thức của các nhà quản lý về đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn.
- Nhân lực trong lĩnh vực KHXH và NV là lực lượng tiên phong trong việc định hướng giá trị xã hội.
- Đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý hiện đang trực tiếp lãnh đạo, quản lý công tác KHXH và NV cần nhận thức sự cần thiết của việc đầu tư đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực KHXH và NV một hài hoà, cân đối với việc đào tạo nguồn nhân lực khoa học công nghệ.
- Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, nguồn nhân lực trong lĩnh vực KHXH và NV không thể tự phát hình thành mà phải trải qua quá trình chủ động, tích cực đào tạo.
- Nhân lực trong lĩnh vực KHXH và NV đa số được đào tạo cơ bản, đã trải qua rèn luyện trong thực tiễn, được trang bị thế giới quan và phương pháp luận khoa học, có nhiều thành tựu cống hiến cho khoa học của đất nước tuy nhiên nhu cầu phát huy năng lực sáng tạo của nhân lực trong lĩnh vực KHXH và NV ngày càng tăng.
- Để có được năng lực đó thì nhân lực trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn phải được đào tạo.
- Nhân lực trong lĩnh vực KHXH và NV phải có phẩm chất đạo đức tốt, tư duy khoa học sắc sảo, năng động, có tinh thần khoa học, có phương pháp nghiên cứu tiên tiến, phù hợp với vốn kiến thức và thực tiễn phong phú dồi dào.
- Họ cần phải được đào tạo mới, đào tạo lại một cách quy củ, công phu và thường xuyên trong quá trình làm việc.
- Từ việc nâng cao nhận thức, các nhà quản lý cần cụ thể hoá bằng những chính sách, hành động cụ thể đối với công tác đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực này.
- Từ việc xây dựng chiến lược đào tạo đến xây dựng quy chế đào tạo đối với từng đối tượng cụ thể và thực hiện chúng trên thực tế.
- Trước mắt, cần tập trung vào việc đào tạo trên đại học nhằm tạo ra nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học bậc cao và cũng là nguồn hình thành đội ngũ chuyên gia đầu đàn của KHXH và NV trong tương lai.
- Việc xây dựng chiến lược đào tạo để khắc phục tình trạng thiếu đội ngũ đầu đàn, thiếu chuyên gia KHXH và NV hiện nay.
- Chất lượng ngang tầm quốc tế là tiêu chuẩn hàng đầu của nguồn nhân lực chất lượng cao ở thế kỷ XXI.
- Những nỗ lực phải tập trung vào chất lượng, từ khâu tạo nguồn đến nội dung đào tạo và hiệu quả đào tạo theo hướng quy chuẩn hoá, hoà nhập và liên thông với quốc tế.
- Ngoài ra, bản thân đội ngũ nhân lực cần phải thường xuyên nâng cao năng lực chuyên môn và nhận thức rõ về vị trí, vai trò, bổn phận của mình để có thể phát huy tiềm năng, bộc lộ năng lực, phẩm chất khoa học của mình.
- Năng khiếu lý luận là một vốn quý của mỗi nhà khoa học xã hội và của quốc gia.
- Gắn liền công tác đào tạo với công tác quy hoạch, sử dụng, đãi ngộ và đánh giá nhân lực trong lĩnh vực KHXH và NV.
- Đào tạo chỉ là một khâu trong quản lý nguồn nhân lực.
- Vì vậy, muốn hoạt động đào tạo nguồn nhân lực hiệu quả đòi hỏi nhà quản lý phải gắn công tác đào tạo với quy hoạch, sử dụng, đãi ngộ và đánh giá nhân lực.
- Thực hiện giải pháp này cụ thể hoá biện pháp như sau: Thứ nhất, cần xây dựng, quy hoạch đội ngũ nguồn nhân lực trong lĩnh vực KHXH và NV có quy mô hợp lý, có cơ cấu đồng bộ về chuyên môn (ngành, chuyên ngành), trình độ (học hàm, học vị) và về độ tuổi, giới tính…đảm bảo tính kế thừa và phát triển.
- Thứ hai, cần có chính sách sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực trong lĩnh vực KH XH và NV sau khi đào tạo để không dẫn đến tình trạng lãng phí trong đào tạo.
- Thực trạng của quá trình sử dụng đội ngũ nhân lực KHXH và NV bị lãnh phí do giữa đào tạo và sử dụng chưa đồng bộ.
- Vì vậy, hiện nay với một số ngành khoa học xã hội và nhân văn vó vai trò lớn với sự phát triển của đất nước, Nhà nước nên có kế hoạch đào tạo và sử dụng nhằm phục vụ cho những mục tiêu chiến lược.
- Cần tiến hành thường xuyên việc khảo sát hiện trạng đào tạo và sử dụng nhân lực trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn để từ đó có một chiến lược đào tạo đúng đắn..
- Thứ ba, có các chính sách đãi ngộ cụ thể đối với những người được đào tạo.
- Người được đào tạo cần có sự hỗ trợ về tài chính để công tác đào tạo được thực sự nâng cao về chất lượng.
- Thứ tư, kết quả đào tạo có thể được làm cơ sở đánh giá nhân lực - Tăng cường điều kiện tài chính.
- cơ sở vật chất phục vụ quá trình đào tạo, phát triển nguồn nhân lực.
- Điều kiện tài chính,điều kiện vật chất là những yếu tố vật chất phục vụ cho quá trình tích luỹ, thể hiện và tái tạo tiềm năng nguồn nhân lực trong lĩnh vực KHXH và NV.
- Để đảm bảo cho quá trình đào tạo có hiệu quả thì cần phải coi trọng công tác này.
- Cải thiện điều kiện tài chính, cơ sở vật chất cho quá trình đào tạo thể hiện ở các mặt sau: Thứ nhất, cải thiện mức sống, điều kiện làm việc của lực lượng nguồn nhân lực này.
- Nhân lực trong lĩnh vực KHXH và NV có đặc thù là lao động trí óc chính vì vậy, họ phải được bù đắp đủ để tái tạo sản xuất sức lao động.
- Thứ hai, cần tập trung ngân sách đầu tư cho cơ sở vật chât của cơ sở đào tạo cũng như đầu tư ngân sách cho công tác đào tạo cán bộ và những công trình khoa học.
- Quan điểm chung đều coi đầu tư cho KHXH và NV là đầu tư cho sự phát triển và muốn phát triển khoa học thì phải đầu tư.
- Thứ ba, cần thành lập Quỹ “Phát triển tài năng khoa học” để phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng những tài năng khoa học.
- Thực hiện thường xuyên phương thức “Đào tạo kế nhiệm” đối với nguồn nhân lực KHXH và NV.
- Đào tạo kế nhiệm là phương thức để tiếp nối thế hệ này sang thế hệ khác hiệu quả nhất, tránh tình trạng ngắt quãng khoảng cách, hụt hẫng giữa các thế hệ.
- Đây là vấn đề có tính chiến lược trong đào tạo phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực KHXH và NV tạo nên lớp lớp thế hệ những nhà nghiên cứu, những giảng viên, những nhà quản lý có chất lượng, đáp ứng yêu cầu của thực tế.
- Đây là con đường hữu hiệu để đào tạo và bồi dưỡng nhân tài.
- Để làm được điều đó, cần có chính sách đào tạo riêng với từng đối tượng đào tạo, không nên chỉ thực hiện chính sách chung cho tất cả các đối tượng tạo nên hiện tượng “hành chính hoá” trong công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực.
- Hợp tác quốc tế là giải pháp để nâng cao chất lượng đào tạo Hợp tác quốc tế trong đào tạo nguồn nhân lực trong KHXH và NV là một phương cách hữu hiệu để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
- Chúng ta cần phát huy tối đa nội lực và tranh thủ được sự giúp đỡ của các quốc gia, tổ chức quốc tế trong vấn đề đào tạo nguồn nhân lực này.
- Xây dựng hệ thống chính sách cụ thể về vấn đề hợp tác quốc tế trong đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nhân lực có trình độ cao.
- Liên kết với các viện nghiên cứu, các trường đại học có uy tín của nước ngoài tổ chức các chương trình đào tạo nhân lực KHXH và NV + Có chiến lược và lộ trình cụ thể trong việc cử cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài với từng tổ chức nhất định thông qua liên kết đào tạo, hợp tác nghiên cứu với các tổ chức quốc tế và chuyên gia nước ngoài.
- Tạo mối quan hệ hợp tác lâu bền với các trường đại học, viện nghiên cứu của các nước có nền KHXH và NV mạnh để từ đó có thể phát triển khoa học, đẩy mạnh hội nhập kinh tế theo từng hướng trọng điểm mà đất nước ta cần.
- Đối mới theo hướng hội nhập hệ thống chương trình đào tạo phù hợp với chương trình đào tạo hiện đại trên thế giới.
- Tăng cường đầu tư cho công tác xây dựng chương trình đào tạo phát triển nhân lực KHXH và NV hướng tới mục tiêu đạt tiêu chuẩn của các nước tiên tiến.
- Tiếp cận các chương trình đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế bằng việc cải cách các chương trình sẵn có sao cho phù hợp với đặc thù của Việt Nam.
- Qua đó, mở rộng các hình thức liên kết đào tạo quốc tế tại Việt Nam, để vừa giảm gánh nặng kinh phí, vừa đạt hiệu quả trong điều kiện thực tế.
- Đây là nguồn nhân lực đáng kể cho chính sách hội nhập trong lĩnh vực KHXH và NV.
- Mục tiêu đào tạo nhân lực trong lĩnh vực KHXH và NV đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới là đào tạo, phát triển nguồn nhân lực KHXH và NV (bao gồm các thế hệ kế tiếp) có trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị và bản lĩnh khoa học đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn đổi mới và ngang tầm với tiêu chuẩn quốc tế.
- Hướng tới đào tạo cơ bản, chuyên sâu, xây dựng cơ cấu nhân lực hoàn chỉnh với các thế hệ khoa học liên tục phát triển.
- Năng lực lao động xã hội của nhân lực trong lĩnh vực KHXH và NV được hiểu một cách khái quát là tri thức chuyên sâu và có hệ thống, phương pháp nghiên cứu chuyên ngành, khả năng phát hiện và giải quyết các vấn đề thực tiễn bằng chuyên môn khoa học xã hội.
- phương pháp pháp nghiên cứu khoa học.
- Những năng lực ấy được hình thành gắn liền với chuyên môn của nhân lực trong lĩnh vực KHXH và NV hoặc xuất phát từ những yếu tố có liên quan đến quá trình lao động sáng tạo của họ.
- Nó có được là do quá trình tích luỹ, rèn luyện trong thực tiễn khoa học, trong quá trình sáng tạo và truyền bá tri thức của nhà khoa học và cũng là kết quả của những tác động tích cực của xã hội với KHXH và NV.
- Quá trình tích luỹ tri thức của nhân lực trong lĩnh vực KHXH và NV khá phong phú, đa dạng.
- Có nhiều con đường để tích luỹ tiềm năng khoa học xã hội.
- được đào tạo cơ bản hoặc tự đào tạo, song tất cả đều giống nhau ở sự cần cù, nghiêm túc và sáng tạo.
- Muốn đào tạo, phát triển nhân lực có hiệu quả, bài toán đầu tiên đặt ra là chất lượng.
- Đào tạo và phát triển nhân lực trong lĩnh vực KHXH và NV có vai trò quyết định đến trình độ chuyên môn, năng lực khoa học - yếu tố quan trọng nhất tạo nên chất lượng nhân lực.
- Tuy nhiên việc đào tạo và phát triển nhân lực phải theo một quy trình nhất định thì các giải pháp mới mang tính đồng bộ.
- Nếu chúng ta yếu ở khâu nào thì tập trung giải pháp ngay ở khâu đó tạo nên sự thống nhất và toàn diện trong đào tạo nhân lực.
- Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là quá trình diễn ra thường xuyên.
- Đánh giá hiệu quả của quá trình đào tạo là khâu cuối cùng của quy trình nhưng lại là cơ sở để xác định nhu cầu đào tạo cho giai đoạn tiếp theo.