« Home « Kết quả tìm kiếm

Đáp ứng kháng thể ho gà ở máu bà mẹ và cuống rốn sau khi tiêm phòng vacxin tdap ở thời kỳ mang thai


Tóm tắt Xem thử

- ĐÁP ỨNG KHÁNG THỂ HO GÀ Ở MÁU BÀ MẸ VÀ CUỐNG RỐN SAU KHI TIÊM PHÒNG VẮC XIN Tdap Ở THỜI KỲ MANG THAI.
- Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng đánh giá tính sinh miễn dịch của vắc xin Tdap ở phụ nữ mang thai được thực hiện tại 3 xã của huyện Lý Nhân - tỉnh Hà Nam trong khoảng thời gian từ tháng 12/2012 đến tháng 3/2014.
- 50 phụ nữ 18 - 35 tuổi, mang thai trong khoảng 20 - 32 tuần được tiêm vắc xin Tdap (ADACEL®, Sanofi, Pháp).
- Nhóm chứng gồm 50 phụ nữ 18 - 35 tuổi, mang thai trong khoảng 20 - 32 tuần được tiêm vắc xin uốn ván (TT – IVAC, Việt Nam) theo chương trình tiêm chủng quốc gia.
- Các kháng thể kháng ho gà (anti PT, anti FHA và PRN) được tiến hành phân tích và so sánh ở các thời điểm trước và sau tiêm vắc xin, khi sinh và máu cuống rốn.
- Kết quả cho thấy 51% phụ nữ mang thai sau tiêm Tdap 1 tháng đã đạt ngưỡng đáp ứng dương, với nồng độ trung bình kháng thể kháng PT tăng 6,36 lần so với giá trị trước tiêm (9,58 IU/ml – 60,93 IU/ml).
- Nồng độ trung bình kháng thể kháng PT máu cuống rốn có xu hướng cao hơn ở máu mẹ khi sinh và có sự tương quan chặt chẽ (r = 0,733).
- Việc tiêm phòng vắc xin Tdap cho phụ nữ mang thai là có hiệu quả, nồng độ trung bình kháng thể kháng PT máu mẹ khi sinh và máu cuống rốn của con ở nhóm tiêm Tdap cao hơn rõ rệt khi so sánh với nhóm tiêm TT ở cùng thời điểm (p=0,000 và p= 0,002)..
- Từ khóa: Tdap, ho gà, phụ nữ mang thai, máu cuống rốn, kháng thể.
- Ho gà là bệnh truyền nhiễm cấp tính ở đường hô hấp gây nên bởi Bordetella pertus- sis.
- Hầu hết các ca ho gà nhập viện tử vong đều là trẻ dưới 3 tháng tuổi [2, 3].
- Do vậy, khoảng thời gian 3 tháng đầu tuổi đời của trẻ là thời điểm dễ lây nhiễm bệnh ho gà nhất..
- Cho đến nay, ho gà vẫn là một vấn đề cần quan tâm của y tế công cộng ngay cả ở những.
- Vì vậy, năm 2011, ACIP đã khuyến cáo tất cả phụ nữ có thai trước đây không tiêm phòng Tdap nên được tiêm phòng ở giai đoạn sau tuần thứ 20 của thai kỳ để truyền kháng thể thụ động đến thai nhi/trẻ sơ sinh nhằm tăng cường khả năng phòng bệnh cho trẻ đặc biêt trong 3 tháng đầu của tuổi đời..
- Ở Việt Nam, năm 1990, sau 5 năm tiến hành chương trình tiêm chủng mở rộng, chúng ta đã giảm số ca mắc ho gà từ 44.011 ca xuống 4.095 ca.
- Vắc xin ho gà hiện dùng trong chương trình tiêm chủng mở rộng tại Việt Nam là vắc xin 5 trong 1 với thành phần ho gà toàn tế bào.
- Theo hiểu biết của chúng tôi, hiện nay, ở Việt Nam vẫn chưa có nghiên cứu.
- huyết thanh học nào đánh giá đáp ứng miễn dịch sau tiêm phòng vắc xin ho gà vô bào cho bà mẹ trong quá trình mang thai..
- Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành tiêm vắc xin 3 trong 1: Tdap phòng bệnh bạch hầu – ho gà - uốn ván, có thành phần ho gà vô bào (tên thương mại Adacelâ Sanofi Pasteur, Pháp) nhằm đánh giá tính sinh miễn dịch sau khi tiêm ở phụ nữ mang thai và đánh giá việc truyền kháng thể từ mẹ sang con thông qua việc so sánh nồng độ kháng thể ở máu bà mẹ và cuống rốn của trẻ..
- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Đối tượng.
- 100 phụ nữ khỏe mạnh ở độ tuổi 18-35, mang thai trong khoảng 20 - 32 tuần (xác định bằng kỳ kinh và siêu âm) được chọn lựa và chia thành 2 nhóm: Nhóm 1 gồm 50 phụ nữ tiêm vắc xin Tdap (ADACEL.
- Sanofi Pasteur – Pháp) là vắc xin 3 trong 1, phòng bệnh bạch hầu-ho gà-uốn ván với thành phần ho gà vô bào.
- nhóm 2 gồm 50 phụ nữ được tiêm vắc xin Tetanus (TT-IVAC, Việt Nam) phòng bệnh uốn ván theo lịch của Chương trình Tiêm chủng mở rộng Quốc gia..
- 2.2 Địa điểm và thời gian nghiên cứu.
- 2.3 Phương pháp nghiên cứu 2.3.1 Thu thập mẫu.
- Mẫu máu được thu thập 03 lần đối với nhóm bà mẹ tiêm vắc xin ADACEL ® (trước tiêm, sau tiêm 01 tháng và khi sinh).
- Nhóm bà mẹ tiêm TT được lấy máu 02 lần: Tại thời điểm trước khi tiêm vắc xin TT và khi sinh.
- 5 ml máu tĩnh mạch được thu thập từ mỗi bà mẹ tại các thời điểm theo yêu cầu và máu cuống rốn.
- Các mẫu huyết thanh được xác định nồng độ kháng thể IgG kháng-PT (pertussis toxin), FHA (filamentous hemagglutinin) và PRN (pertactin) bằng kỹ thuật miễn dịch hấp phụ men (Enzyme linked immunosorbent assays - ELISA) theo hướng dẫn của nhà sản xuất (SERION ELISA classic Bordetella pertussis, Würzburg, Germa- ny), có độ nhạy và đặc hiệu đạt tương ứng 91%.
- Đáp ứng miễn dịch đạt hiệu quả (đáp ứng dương) khi hiệu giá kháng thể sau khi tiêm vắc xin đạt giá trị 20IU/ml nếu hiệu giá kháng thể trước khi tiêm là <5IU/ml.
- tăng gấp 4 lần nếu hiệu giá trước tiêm vắc xin là 5-20IU/ml hoặc tăng gấp 2 lần nếu hiệu giá ban đầu là >20IU/ml [5]..
- Nồng độ kháng thể trung bình (GMCs-ge- ometric mean antibody concentrations) được tính cho từng kháng nguyên.
- Sự khác biệt về nồng độ kháng thể trung bình giữa nhóm bà mẹ tiêm Tdap và TT được xác định bằng thương số GMC của nhóm Tdap và nhóm TT.
- Nồng độ anti PT>5IU/ml được coi là ngưỡng bảo vệ [6]..
- 2.4 Đạo đức nghiên cứu.
- Trong báo cáo này chúng tôi chỉ nêu kết quả về nồng độ trung bình kháng thể kháng PT sau khi phân tích mẫu máu thu được tại 3 thời điểm của 49 bà mẹ (1 bà mẹ chỉ lấy được mẫu tại thời điểm trước sinh nên không đưa vào phân tích) trong nhóm tiêm Tdap.
- 49 mẫu máu cuống rốn của trẻ (là con của các bà mẹ ở nhóm tiêm Tdap) khi sinh.
- 95mẫu máu tại 2 thời điểm của 50 bà mẹ ở nhóm tiêm TT và 45mẫu máu cuống rốn con của các phụ nữ tiêm TT (Bảng 1)..
- Số mẫu phân tích máu cuống rốn của trẻ nhóm tiêm ADACEL ® 49.
- Số mẫu phân tích trước tiêm vắc xin TT 50.
- Số mẫu phân tích máu cuống rốn của trẻ nhóm tiêm TT 45*.
- Loại 05 mẫu máu cuống rốn do lấy không đảm bảo yêu cầu..
- Nồng độ trung bình kháng thể kháng độc tố ho gà (PT) ở phụ nữ mang thai được tiêm Tdap và TT.
- 3.2 Nồng độ trung bình kháng thể kháng độc tố ho gà (PT).
- Kháng thể kháng độc tố ho gà.
- GMC IU/ml (95% CI) Nhóm tiêm vắc xin.
- ADACEL® (IU/ml) Nhóm tiêm vắc xin.
- Trước tiêm vắc xin Sau tiêm vắc xin .
- Khi sinh .
- Máu cuống rốn .
- Nồng độ trung bình kháng thể kháng PT trước tiêm vắc xin ở cả hai nhóm là như nhau (p=0,984)..
- Nồng độ kháng thể kháng PT của máu mẹ khi sinh ở nhóm tiêm ADACEL ® cao hơn nhóm tiêm TT, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,01.
- Nồng độ trung bình kháng thể kháng PT.
- máu cuống rốn ở nhóm trẻ có mẹ tiêm ADA- CEL ® cũng cao hơn rõ rệt khi so sánh với nhóm trẻ có mẹ tiêm TT (p<0,01)..
- Sau tiêm Tdap 1 tháng có 51% số phụ nữ mang thai đạt ngưỡng đáp ứng dương, nồng độ trung bình kháng thể kháng PT sau tiêm cao gấp 6,36 lần so với trước tiêm (Bảng 3)..
- Nồng độ trung bình kháng thể kháng PT ở nhóm phụ nữ mang thai có đáp ứng dương sau tiêm Tdap.
- Thời điểm lấy máu Kháng thể kháng độc tố ho gà.
- Trước tiêm vắc xin Tdap .
- Sau tiêm vắc xin Tdap 1 tháng .
- 3.3 Thời điểm tiêm Tdap và hiệu quả đáp ứng miễn dịch với kháng nguyên PT.
- Khi đánh giá hiệu quả đáp ứng miễn dịch.
- của nhóm nghiên cứu và so sánh với nhóm tuổi thai chúng tôi nhận thấy tuổi thai khi tiêm không ảnh hưởng đến hiệu quả miễn dịch..
- Hiệu quả đáp ứng miễn dịch đối với PT theo nhóm tuổi thai tiêm Tdap Nhóm tuổi thai.
- 3.4 Tương quan giữa nồng độ kháng thể.
- trước và sau tiêm Tdap.
- Kết quả phân tích tương quan nồng độ kháng thể trước và sau tiêm Tdap cho thấy r=0,496 (p<0,001).
- Nồng độ kháng thể sau tiêm (IU/ml).
- Tương quan giữa nồng độ kháng thể trước và sau tiêm Tdap.
- 3.5 Tương quan giữa nồng độ kháng thể kháng PT ở cuống rốn và nồng độ kháng thể kháng PT ở máu tĩnh mạch của bà mẹ.
- khi sinh.
- Nồng độ kháng thể kháng PT ở máu tĩnh mạch của bà mẹ khi sinh(IU/ml).
- Nồng độ kháng thể kháng PT ở cuống rốn (IU/ml).
- Tương quan giữa nồng độ kháng thể kháng PT ở cuống rốn và nồng độ kháng thể kháng PT ở máu tĩnh mạch của bà mẹ khi sinh.
- Vi khuẩn ho gà (Bordetella pertussis) có rất nhiều kháng nguyên như PT (Pertussis Toxin), PRN (Pertactin), FHA (Filamentous hemaag- glutinin.
- nhưng kháng nguyên PT là quan trọng nhất và là thành phần không thể thiếu trong tất cả các vắc xin ho gà vô bào.
- Đáp ứng miễn dịch sinh ra kháng thể kháng PT góp phần rất quan trọng trong việc phòng chống bệnh ho gà.
- Nồng độ trung bình anti PT tại thời điểm trước tiêm ở 2 nhóm tiêm vắc xin ADACEL ® và nhóm tiêm vắc xin TT khác nhau không đáng kể (13,06 và 13,12).
- Trong số 49 phụ nữ mang thai được tiêm Tdap có 25 người đáp ứng dương (positive response) với PT (hiệu giá kháng thể sau khi tiêm vắc xin đạt giá trị 20IU/ml khi hiệu giá kháng thể trước khi tiêm là <5IU/ml.
- ứng miễn dịch sau tiêm không đạt ngưỡng đáp ứng dương.
- số phụ nữ mang thai đáp ứng miễn dịch đạt hiệu quả sau tiêm.
- Tuy nhiên, họ sử dụng vắc xin Boostrix ® (GSK) có hàm lượng PT là 8µg trong khi chúng tôi sử dụng vắc xin ADACEL ® hàm lượng PT chỉ có 2,5µg [7, 8].
- Do tại thời điểm chúng tôi thực hiện nghiên cứu này, vắc xin Boostrix chưa được cấp giấy phép sử dụng tại Việt Nam vì vậy chúng tôi sử dụng vắc xin ADACEL ® để thay thế..
- Tuổi trung bình khi tiêm vắc xin của các bà mẹ là 25,7, tức là hầu hết các bà mẹ đều sinh sau năm 1985, năm Việt Nam bắt đầu thực hiện Chương trình tiêm chủng mở rộng (EPI) cho trẻ.
- Sau tiêm Tdap 1 tháng, nồng độ trung bình anti PT ở nhóm đạt ngưỡng đáp ứng dương (51%) tăng gấp 6,36 lần (từ 9,58 tăng lên 60,93 IU/ml).
- Tương tự, nồng độ trung bình kháng thể kháng PT máu cuống rốn ở nhóm trẻ có mẹ tiêm ADACEL®cũng cao hơn nhóm trẻ có mẹ tiêm TT (31,23 so với 9,88 IU/ml), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,01).
- Như vậy, việc tiêm vắc xin Tdap cho phụ nữ mang thai làm tăng đáng kể nồng độ kháng thể kháng ho gà cho con của họ thông qua việc truyền kháng thể từ mẹ sang con..
- Khi đánh giá mối tương quan giữa thời điểm tiêm Tdap với tuần tuổi của thai chúng tôi không nhận thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm phụ nữ có tuổi thai nhỏ hơn 24 tuần và nhóm có tuổi thai trên 24 tuần với p.
- Tuy nhiên, số bà mẹ trong nghiên cứu của chúng tôi còn hạn chế (49 bà mẹ) và phân chia không đều, vì vậy chỉ đưa ra khuyến cáo thời điểm tiêm vắc xin có thể tiến hành trong bất kỳ thời điểm nào khi độ tuổi thai từ 20 đến 32 tuần.
- Theo ACIP và CDC (Trung tâm kiểm soát dịch bệnh Mỹ), việc tiêm phòng Tdap cho phụ nữ có thai nên thực hiện ở tuần tuổi thai từ do vậy, chúng tôi cần tiếp tục tiến hành nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn..
- tương quan giữa nồng độ kháng thể trước tiêm và sau tiêm là tương quan vừa với r = 0,496 (p<0,001);.
- tương quan giữa nồng độ kháng thể máu mẹ khi sinh và nồng độ kháng thể máu cuống rốn là tương quan chặt với r = 0,733 (p<0,001).
- Nồng độ kháng thể kháng PT trong máu cuống rốn tỉ lệ thuận và có xu hướng cao hơn nồng độ kháng thể kháng PT trong máu mẹ.
- Trên thế giới, tiêm phòng vắc xin trong giai đoạn mang thai đã được thực hiện và đạt hiệu quả làm giảm tỉ lệ mắc bệnh[10, 11].
- Kết quả bước đầu trong ng- hiên cứu của chúng tôi cho thấy tính sinh miễn dịch tốt khi tiêm vắc xin Tdap cho phụ nữ trong giai đoạn thai kỳ, không chỉ góp phần tăng khả năng phòng bệnh cho bà mẹ, mà còn làm tăng khả năng bảo vệ con của họ thông qua nồng độ kháng thể cao trong máu cuống rốn khi so sánh.
- Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần đưa ra những khuyến nghị mở rộng đối tượng được tiêm phòng ho gà nhằm làm giảm tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong do ho gà ở trẻ sơ sinh..
- Việc đánh giá về khả năng bảo vệ trẻ ở giai đoạn khi mới sinh và trước khi tiêm mũi vắc xin phòng bệnh ho gà đầu tiên, cũng như đánh giá hiệu quả đáp ứng miễn dịch sau khi tiêm phòng đủ 3 mũi theo lịch của chương trình Tiêm chủng quốc gia là hướng nghiên cứu tiếp theo của chúng tôi..
- Đánh giá sự đáp ứng miễn dịch ở phụ nữ mang thai được tiêm vắc xin Tdap (ADACEL.
- (1) nồng độ trung bình kháng thể kháng PT ở phụ nữ mang thai đạt ngưỡng đáp ứng dương tăng 6,36 lần so với trước tiêm.
- (2) nồng độ kháng thể kháng PT trong máu cuống rốn có tương quan chặt chẽ và có xu hướng cao hơn nồng độ kháng thể máu mẹ khi sinh.
- Như vậy vắc xin Tdap (ADACEL®) đã làm tăng đáng kể khả năng miễn dịch kháng độc tố ho gà ở phụ nữ mang thai.