« Home « Kết quả tìm kiếm

Khai thác chung nghề cá châu Phi - Một số kinh nghiệm đối với Việt Nam


Tóm tắt Xem thử

- Khai thác chung nghề cá châu Phi - Một số kinh nghiệm đối với Việt Nam.
- Khai thác chung đã trở thành thực tiễn phổ biến trên thế giới từ những năm 60, 70 của thế kỷ trước và đang ngày càng phát triển mạnh mẽ ở khắp các châu lục.
- Theo các nghiên cứu lý luận và trên thực tiễn ở một số vùng biển, khai thác chung thường diễn ra nơi vùng biển chồng lấn và được sử dụng như một biện pháp hoà bình để giải quyết các xung đột.
- Tuy nhiên khi nghiên cứu các thoả thuận khai thác chung nghề cá ở châu Phi, chúng ta sẽ có một cách hiểu rộng hơn về vấn đề này.
- Thực tế là, khai thác chung nghề cá châu Phi diễn ra ngay cả ở những vùng biển không chồng lấn, không có tranh chấp và dường như có giá trị về mặt hợp tác hơn.
- Với việc phân tích, đánh giá các hiệp định này, tác giả bài viết hi vọng sẽ đưa ra cách nhìn nhận mới hơn, đầy đủ hơn về khai thác chung theo nghĩa rộng của “joint development” (cùng phát triển), từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong hoạt động hợp tác nghề cá với các nước trong khu vực..
- Trong khi đó, nhu cầu khai thác tài nguyên lại là nhu cầu bức thiết đối với các quốc gia này.
- Vì vậy, một giải pháp khả thi được lựa chọn để vừa khắc phục những yếu kém về mặt kỹ thuật, vừa đáp ứng nhu cầu khai thác tài nguyên là hợp tác với các quốc gia có nền kinh tế xã hội phát triển hơn hoặc những quốc gia có tranh chấp nơi vùng biển chồng lấn: giải pháp hợp tác khai thác chung [2.
- Hiệp định nhượng quyền.
- Đặc biệt loại hiệp định này cũng rất phù hợp với các nước châu Phi khi có nguồn tài nguyên cá phong phú mà khả năng khai thác yếu kém.
- Có thể nói, hiệp định nhượng quyền là một giải pháp hay, vừa bảo đảm được các quyền chủ quyền và lợi ích hợp pháp của quốc gia ven biển, vừa đáp ứng được nhu cầu của những nước đánh cá tầm xa tiếp tục khai thác số cá dư ở khu vực các nước ven biển..
- Hiệp định hợp tác nghề cá về mặt khoa học kỹ thuật.
- Khoa học kỹ thuật nghề cá là một trong nhũng yếu tố quan trọng để vừa đảm bảo khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên cá, vừa bảo vệ được môi trường biển và bảo tồn tài nguyên sinh vật và hệ sinh thái biển.
- Dạng thứ hai là một bên sẽ hỗ trợ về phương tiện kỹ thuật, đào tạo, nghiên cứu cho bên kia, đổi lại nước thành viên kia sẽ cho các tàu đánh cá của nước đối tác được khai thác chung tại vùng biển thuộc chủ quyền nước mình.
- Đây là hình thức được áp dụng khá phổ biến giữa các nước châu Phi với Xô Viết (nay là Liên bang Nga) trong đó hoạt động khai thác chung sẽ được tiến hành tại vùng biển thuộc thẩm quyền tài phán của các nước châu Phi..
- Ở đây có tồn tại mô hình khai thác chung, vì vậy trong phạm vi của chuyên đề này ta cũng sẽ phân tích một số Hiệp định theo hình thức này, điển hình là Hiệp định giữa Xô Viết và Angola năm 1976, giữa Chính phủ Xô Viết và Chính phủ Guinea năm 1981..
- Các hiệp định có quy định thiết lập vùng đánh cá chung.
- Đây là hình thức hợp tác mà các thành viên sẽ ký kết một thoả thuận trong đó thiết lập một vùng đánh cá chung, tại đó cả hai bên cùng tiến hành thăm dò, khai thác, quản lý các hoạt động liên quan đến việc thăm dò, khai thác phù hợp với luật pháp quốc tế và theo các điều kiện, cách thức nhất định do hai bên thoả thuận [2].
- Hình thức này hiện nay được gọi là khai thác chung (Joint development).
- Trên thế giới hiện nay có khoảng trên dưới 40 hiệp định khai thác chung cả dầu khí và nghề cá, trong đó khai thác chung dầu khí là hình thức phổ biến hơn.
- Tuy nhiên hiệp định khai thác chung nghề cá ở châu Phi có số lượng không nhiều, chỉ có khai thác chung nghề cá trong phạm vi Hiệp định khai thác chung hỗn hợp giữa Senegal và Guinea Bissau năm 1993, các hoạt động khai thác chung nghề cá còn lại chủ yếu nằm trong các hiệp định về hỗ trợ kỹ thuật như ở phần trên đã nói.
- Vì vậy, chuyên đề này sẽ chỉ đi sâu phân tích các hiệp định liên quan tới hoạt động khai thác chung nghề cá sau:.
- Hiệp định quản lý và hợp tác giữa Senegal và Guinea Bissau ngày .
- Nội dung một số hiệp định khai thác chung nghề cá châu Phi.
- Với tính chất là một điều ước quốc tế xác lập quan hệ hợp tác, cùng thăm dò, khai thác quản lý và sử dụng các nguồn tài nguyên biển, thỏa thuận khai thác chung được xây dựng một cách linh hoạt theo ý chí của các.
- Theo quan niệm truyền thống thì khai thác chung sẽ được tiến hành ở vùng biển chồng lấn giữa hai quốc gia có vùng biển tiếp liền hay đối diện để có một biện pháp tạm thời giải quyết các bất đồng tranh chấp và phân định.
- Để làm rõ tình hình khai thác chung nghề cá ở châu Phi, đồng thời để có một cách nhìn mới về khai thác chung, bài viết sẽ đi sâu phân tích một số hiệp định khai thác chung nghề cá ở châu Phi sau đây..
- Trong khi đó Liên Xô từng là quốc gia có nền kinh tế phát triển trên thế giới, lại có nhu cầu khai thác và tiêu thụ thuỷ hải sản khá lớn..
- Đây là một Hiệp định hợp tác nghề cá theo nghĩa rộng thường thấy trong mối quan hệ nghề cá giữa Liên Xô và các nước châu Phi mà không hoàn toàn tập trung vào khai thác chung như trong một số thoả thuận khai thác chung nghề cá điển hình trên thế giới, nhưng ở đây vẫn có thể chọn lọc một số yếu tố của khai thác chung giữa hai nước và từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong tương lai.
- Hiệp định được chia thành 4 phần, 14 điều quy định những nội dung cơ bản liên quan đến hoạt động khai thác chung nghề cá và hỗ trợ kỹ thuật giữa hai quốc gia..
- Điều 5 của Hiệp định đã xác định một vùng khai thác chung là khu vực khá rộng lớn bao gồm hầu như toàn bộ các vùng biển của Angola ở bờ Đại Tây Dương.
- Vì vậy khai thác chung ở khu vực này theo Hiệp định sẽ có tiềm năng rất lớn.
- Để quản lý vùng khai thác chung và các hoạt động đánh bắt, nghiên cứu khoa học, hỗ trợ kỹ thuật ở khu vực này, một “Uỷ ban hỗn hợp” (Joint Commision) bao gồm đại diện của các bên được thành lập.
- Đồng thời, hai bên cũng đã đề ra ý tưởng về việc thành lập một công ty khai thác chung Liên Xô - Angola nhưng lại không được quy định cụ thể.
- Tuy nhiên, công ty này, theo đề xuất của hai bên sẽ là một công ty liên hợp đảm nhận cả việc đánh bắt, chế biến và bán các sản phẩm từ việc khai thác chung của hai quốc gia..
- Đồng thời điều khoản này không chỉ rõ “các bên có liên quan trong đánh cá chung” là những bên nào sẽ gây phức tạp trong quá trình thực thi hiệp định trong trường hợp có sự tham gia của các nhà thầu, công ty khai thác hoặc quốc gia thứ ba,… Đây là một nhược điểm khá lớn của Hiệp định..
- Đặc thù của thoả thuận giữa Liên Xô - Angola và cũng là đặc thù của các hiệp định hợp tác hỗ trợ kỹ thuật kết hợp với khai thác chung là các điều khoản về hỗ trợ kỹ thuật thường rất chi tiết.
- Ở Hiệp định này, Liên Xô.
- Cũng giống như các quốc gia châu Phi khác, tuy giàu có về tài nguyên biển nhưng do trình độ lạc hậu, phương tiện đánh bắt thô sơ nên không thể khai thác hiệu quả dẫn đến lãng phí nguồn tài nguyên này.
- Vì vậy hình thức hợp tác để có được sự hỗ trợ về kinh tế, kỹ thuật đổi lại bằng việc cho phép quốc gia đối tác cùng khai thác ở vùng biển của mình là một giải pháp khả thi đối với Guinea.
- Hiệp định gồm 8 điều khoản quy định các nội dung về khai thác chung nghề cá và hợp tác về kỹ thuật giữa hai quốc gia..
- Vùng hợp tác khai thác chung theo quy định tại Điều 4 của Hiệp định là “vùng nước thuộc thẩm quyền đánh cá của Cộng hoà nhân dân cách mạng Guinea” (3.
- Tương nhự như Hiệp định Angola - Liên Xô, một thiết chế đồng tài phán dưới hình thức Uỷ ban Liên hợp Liên Xô - Guinea gồm đại diện mỗi quốc gia đã được thành lập để quản lý hoạt động khai thác chung và hợp tác kỹ thuật ở khu vực này.
- Để tiến hành hoạt động khai thác chung ở Vùng, hai bên nhất trí “thành lập sớm nhất có thể, một công ty liên doanh về đánh cá đặt tại Conakry của Cộng hoà Nhân dân Cách mạng Guinea”.
- 1981 là một hợp tác hỗ trợ về mặt kinh tế kỹ thuật có nội dung khai thác chung.
- Mặc dù phạm vi khai thác thủy sản theo hiệp định là lớn hơn, bao gồm cả cả hợp tác ở vùng biển và sông, vùng nước nội địa của Guinea, nhưng phạm vi này cũng không được xác định rõ ràng.
- Đặc biệt là các quy định về số lượng tàu thuyền, về biện pháp khai thác chung, các điều khoản về luật áp dụng và giải quyết tranh chấp cũng không được đề cập trong Hiệp định.
- Đây là một bài học kinh nghiệm lớn đối với các quốc gia khác trong việc kỹ kết các thỏa thuận hợp tác khai thác chung..
- Hiệp định quản lý và hợp tác giữa Senegal và Guinea Bissau là một thỏa thuận khai thác chung hỗn hợp bao gồm khai thác chung các nguồn tài nguyên từ thềm lục địa (dầu khí, khoáng sản) và các loài cá.
- Tuy nhiên trong phạm vi của bài viết này, sẽ chỉ nghiên cứu Hiệp định khai thác chung giữa Senegal và Guinea Bissau về các khía cạnh nghề cá..
- Ngay trong Điều 1 của Hiệp định, hai bên đã thống nhất xác định Vùng khai thác chung là thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế liền kề của hai nước Guinea Bissau và Senegal, trải dài dọc biên giới biển giữa hai nước trong vùng biển phía Bắc Đại Tây Dương.
- Để quản lý hiệu quả hoạt động khai thác chung ở khu vực này, hai bên thành lập một Hội đồng quản lý chung (Agency - Hội đồng quản lý và hợp tác) có trụ sở được đặt tại Dakar - thủ đô của Senegal và có thể được chuyển tới Guinea Bissau.
- Hội đồng đóng vai trò là một tổ chức quốc tế đại diện cho hai quốc gia trong các quan hệ quốc tế và trong hoạt động hợp tác quản lý, khai thác nguồn tài nguyên có thể bằng các hình thức tự thực hiện việc khai thác, quản lý này nhưng cũng có thể thông qua thành viên cấp dưới của Hội đồng là Xí nghiệp, công ty con của Xí nghiệp hoặc các Công ty khác (Điều 4)..
- Thực hiện và tổ chức thực hiện các quyền đánh cá, đặc biệt là bằng các điều kiện thành lập và thực hiện hoạt động tiếp cận và khai thác nguồn tài nguyên cá ở Khu vực;.
- Điều khiển việc khai thác thử, thăm dò và khai thác nguồn cá ở Khu vực;.
- Đồng thời Đại hội đồng cũng là cơ quan giám sát, cơ quan an ninh, phụ trách các vấn đề nghi thức ở Khu vực khai thác chung và hoạt động hợp tác với các quốc gia và tổ chức quốc tế khác;.
- Để tiến hành khai thác chung hiệu quả, công bằng nguồn tài nguyên của Vùng, Hội đồng quản lý chung đã thành lập Xí nghiệp khai thác thay mặt cho Hội đồng cũng là đại diện cho hai quốc gia trực tiếp tiến hành các hoạt động ở Khu vực nói chung và các hoạt động nghề cá nói riêng..
- Như vậy, dưới sự quản lý của Hội đồng, Xí nghiệp là cơ quan trực tiếp thực hiện việc khai thác các nguồn tài nguyên cá ở Khu vực..
- Xí nghiệp có thể tự mình tiến hành việc thăm dò, khai thác này nhưng cũng có thể thông qua việc ký kết các “Hiệp định nghề cá” với các công ty của các quốc gia thành viên hoặc ký kết các “Hợp đồng nghề cá” với các công ty hoặc nhóm các công ty khác để thực hiện hoạt động khai thác với điều kiện các công ty, đơn vị đó phải được cấp giấy phép của Quốc gia thành viên (Nếu là công ty của Quốc gia đó) hoặc giấy phép của Đại hội đồng (nếu là công ty của một quốc gia khác) và việc ký kết này phải đảm bảo các thủ tục, nội dung hợp pháp và phù hợp với các quy định của Hiệp định (Điều 11 Nghị định thư bổ sung) [4]..
- và tỷ lệ phân chia lợi nhuận từ khai thác cá được chia đều cho hai bên (10).
- Về tỷ lệ phân chia nguồn lợi khai thác chung nghề cá giữa hai nước, đây là một tỷ lệ khá công bằng và hợp lý, đồng thời cũng thể hiện tính mềm dẻo trong thương lượng và ký.
- (10) Điều 1 Hiệp định ngày .
- Các nguồn tài nguyên khai thác được từ khu vực sẽ được chia sẻ theo tỷ lệ sau:.
- Đây cũng là một nội dung nên được xem xét áp dụng cho các thoả thuận khai thác chung nghề cá khác trên thế giới..
- Theo đó, trong lĩnh vực khai thác dầu khí thì luật áp dụng sẽ là luật của Senegal, còn luật của Guinea Bissau sẽ được áp dụng cho các hoạt động khai thác thử, thăm dò và khai thác các nguồn tài nguyên cá..
- Đây là một thời hạn không phải quá dài (thời hạn hiệp định khai thác chung dài nhất hiện nay là 50 năm theo Bản ghi nhớ Thái Lan - Malaissia năm 1979) nhưng cũng đủ để hai bên cùng tiến hành các hoạt động từ thăm dò, nghiên cứu đến khai thác các nguồn tài nguyên.
- Quy định về việc Hiệp định có thể tự động gia hạn tạo điều kiện “mở” cho hai bên có thể căn cứ vào nhu cầu, năng lực, tình hình thực thi, giá trị kinh tế của nguồn tài nguyên còn lại để tiếp tục thực hiện việc khai thác chung..
- Với tất cả các nội dung đã phân tích trên đây, Hiệp định khai thác chung giữa Senegal và Giunea Bissau là một Hiệp định có rất nhiều ưu điểm nổi bật như: tính đầy đủ, chi tiết của nội dung hiệp định và nghị định thư, các điều khoản rõ ràng với cách thức khoa học, dễ hiểu.
- mô hình quản lý khu vực khai thác chung mới mẻ, ưu việt.
- ngoài ra Hiệp định đã đề cập đến tất cả các vấn đề khác có liên quan đến khai thác chung như nghiên cứu khoa học, bảo vệ môi trường, ngăn ngừa ô nhiễm,….
- Năm 1995 Senegal và Guinea Bissau đã thành lập Agence de Gestion et de Cooperation (AGC) để khai thác chung về dầu và thăm dò đánh cá ở vùng tranh chấp.
- Việc khai thác dầu và đánh bắt cá ở vùng khai thác chung giữa hai nước bước đầu đã có những kết quả khả quan và hiện vẫn đang được hai nước tổ chức khá quy mô..
- Như vậy với rất nhiều các ưu điểm và kết quả thực tế đã đạt được trên đây, Hiệp định hợp tác và quản lý giữa Senegal và Guinea Bissau ngày 4/10/1993 và Nghị định thư bổ sung năm 1995 là một hiệp định điển hình về khai thác chung trên thế giới cả về nội dung, hình thức, mô hình quản lý của hiệp định cũng như hiệu quả thực thi và hiệu quả về kinh tế, xã hội mà Hiệp định mang lại.
- Đây có thể được coi là một điển hình mà Việt Nam và các quốc gia hữu quan ở khu vực Biển Đông cần tham khảo khi tiến hành đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế về khai thác chung trong tương lai..
- Kinh nghiệm tham khảo và vận dụng đối với Việt Nam trong việc ký kết các Hiệp định khai thác chung nghề cá với các nước khu vực Biển Đông.
- Nhận định về khai thác chung nghề cá nhìn từ thực tiễn các nước châu Phi.
- Từ việc phân tích 3 Hiệp định khai thác chung nghề cá điển hình ở châu Phi có thể rút ra được những điều lý thú và bổ ích về khái niệm khai thác chung, với cách nhìn và cách hiểu rộng hơn, đó là:.
- Thứ nhất, khai thác chung không chỉ được tiến hành ở vùng biển chồng lấn hoặc có tranh chấp theo quan niệm truyền thống mà có thể được tiến hành ở vùng biển thuộc thẩm quyền tài phán của một nước theo sự thoả thuận của hai bên.
- Hợp tác khai thác chung nghề cá ở châu Phi dường như đã nghiêng về mặt hợp tác hơn.
- Thứ hai, khai thác chung không đơn giản chỉ là một biện pháp dàn xếp tạm thời cho việc phân định hoặc giải quyết tranh chấp mà còn là biện pháp hợp tác rất hiệu quả.
- Điều đó có nghĩa là không chỉ các quốc gia ven biển có vùng biển đang chờ phân định hoặc đang tranh chấp mới sử dụng khai thác chung mà ngay cả các nước không có tranh chấp, không có chung biên giới biển vẫn có thể áp dụng khai thác chung để đáp ứng các nhu cầu về lợi ích kinh tế;.
- Thứ ba là khai thác chung không chỉ dừng lại ở hoạt động cùng đánh bắt mà có thể gắn liền với các hoạt động hợp tác kinh tế, kỹ thuật, nghiên cứu, thăm dò tài nguyên và có thể mở rộng cả về hợp tác trong chế biến và tiêu thụ các sản phẩm thuỷ sản;.
- Bên cạnh đó hoạt động khai thác chung luôn phải gắn bó với các biện pháp bảo vệ môi trường và bảo vệ tài nguyên sinh vật..
- Một số tranh chấp khác đã được giải quyết bằng biện pháp hoà bình là khai thác chung như Bản ghi nhớ thoả thuận khai thác chung dầu khí giữa Việt Nam và Malaixia, Hiệp định khai thác chung nghề cá Việt Nam - Trung Quốc năm 2000..
- Mặt khác, ngay cả ở những khu vực đã phân định hoặc đã khai thác chung thì vẫn có triển vọng khai thác chung, và biện pháp hoà bình này vẫn được coi là biện pháp phù hợp trong chiến lược hợp tác cùng phát triển của Việt Nam với các nước láng giềng.
- Vì vậy, vấn đề hợp tác nghề cá, hợp tác khai thác chung giữa Việt Nam và các nước trong khu vực là rất có triển vọng, cần được nghiên cứu xem xét một cách nghiêm túc..
- Từ việc xem xét tất cả các điều khoản, ưu nhược điểm của các hiệp định khai thác chung nghề cá ở châu Phi như trên, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam để ký kết các hiệp định khai thác chung như sau:.
- Vùng đánh cá chung trong các hiệp định khai thác chung của Việt Nam với nước ngoài cần được xác định chính xác tỉ lệ diện tích đánh bắt của mỗi bên, toạ độ vùng đánh bắt, và có tính đến các hoàn cảnh hữu quan như vị trí địa lý của các đảo, các cửa sông, luồng hàng hải, tình trạng tài nguyên cá, truyền thống đánh bắt của ngư dân các bên….
- Đặc biệt, chúng ta có thể tiến hành hợp tác khai thác chung với một nước khác ngay cả ở những khu vực không phải là vùng biển chồng lấn nếu các hoàn cảnh kinh tế, kỹ thuật cho phép.
- Cơ chế quản lý khai thác chung.
- Đây là một bài học kinh nghiệm quý giá mà chúng ta rút ra được từ các hiệp định khai thác chung ở châu Phi, đặc biệt là khai thác chung giữa Senegal và Guinea Bissau.
- giữa Hội đồng và Xí nghiệp - công ty khai thác chung;.
- Mô hình đồng quản lý thông qua một một Liên doanh quốc tế này đã được áp dụng khá phổ biến trên thế giới nhưng ở Hiệp định này nó đã thể hiện tính ưu việt, hiệu quả và chặt chẽ giữa các thành viên tham gia hoạt động khai thác chung, vừa đảm bảo tính độc lập, vừa đảm bảo tính phụ thuộc, gắn bó của các cơ quan này.
- Đặc biệt chúng ta có thể tìm hiểu và áp dụng một mô hình chặt chẽ như vậy cho các vùng có triển vọng khai thác chung nhiều bên phức tạp như khai thác chung ba bên Thái Lan, Việt Nam, Malaisia ở vùng thềm lục địa chồng lấn của ba nước..
- Tất cả các vấn đề quan trọng này cần được làm rõ trong các điều khoản của Hiệp định hoặc Nghị định thư về hợp tác khai thác chung..
- Quy định về việc nghiên cứu, trao đổi các thông tin về tình hình tài nguyên thuỷ sản và tình hình khai thác thuỷ sản trong Vùng đánh cá chung..
- đây cũng là một trong những nhược điểm của các Hiệp định khai thác chung ở châu Phi mà chúng ta cần khắc phục..
- Vì vậy khi áp dụng khai thác chung chúng ta cũng nên lưu ý đến yếu tố này và trên cơ sở tình hình tài nguyên cá của các khu vực ký kết, có thể đưa ra các giải pháp phù hợp cho việc quản lý, bảo tồn và phát triển các loài cá này..
- Tuy nhiên, để khai thác hiệu quả nguồn lợi này, không chỉ phụ thuộc vào nội lực của đất nước mà còn phụ thuộc.
- Và khai thác chung chính là một trong những biện pháp hợp tác quốc tế cần thiết, phù hợp với xu thế chung của thời đại