« Home « Kết quả tìm kiếm

Những vấn đề cốt yếu của Ngữ âm học và Âm vị học


Tóm tắt Xem thử

- Những vấn đề cốt yếu của Ngữ âm học và Âm vị học.
- Sau khi tổng hợp, phân tích và khẳng định những nội dung cơ bản có liên quan, bài Những vấn đề cốt yếu của Ngữ âm học và Âm vị học chủ yếu đề cập đến giá trị ngôn ngữ của lĩnh vực này trong quá trình giảng dạy, kiểm tra đánh giá ngoại ngữ nói chung, tiếng Anh nói riêng ở Việt Nam.
- Đặt vấn đề.
- Mới đọc qua tựa đề Những vấn đề cốt yếu của Ngữ âm học và Âm vị học thì tưởng như đơn giản, “xưa như trái đất”, nhưng thực chất, để hiểu biết đầy đủ và cơ bản về vấn đề đã nêu lại không đơn giản chút nào.
- Bởi vì, nó đòi hỏi người nghiên cứu phải có kiến thức chắc chắn không những về ngôn ngữ học mà còn về các ngành khoa học có liên quan, có hiểu biết và sử dụng được một ngôn ngữ nào đó để minh họa hoặc làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.
- Đó chính là vấn đề vừa trừu tượng, vừa cụ thể về Ngữ âm học (Phonetics) và Âm vị học (Phonology) theo quan niệm, quan điểm, cách tiếp cận khác nhau, đặc biệt là giá trị của chúng trong quá trình dạy - học, kiểm tra đánh giá (KTĐG) ngoại ngữ nói chung, tiếng Anh nói riêng..
- Một số nội dung cốt yếu của Ngữ âm học và Âm vị học.
- Cách phát âm (pronunciation) của một ngôn ngữ luôn được nghiên cứu dưới 2 bình diện Ngữ âm học và Âm vị học [1-7].
- Mặc dù 2 ngành này đều nghiên cứu âm thanh, nhưng giữa chúng có một số điểm khác biệt cơ bản như sau:.
- Ngữ âm học.
- Ngữ âm học có tính phổ niệm (universal)..
- Do đó, một trong những nghiên cứu chủ yếu trong lĩnh vực này là các thuộc tính âm thanh có tính chất loài.
- Ngoài ra, Ngữ âm học còn quan tâm đến việc nghiên cứu các âm tố (speech sounds.
- Ngữ âm học không những nghiên cứu quá trình tạo sản âm thanh (speech production), mà còn nghiên cứu quá trình thẩm nhận âm thanh.
- Về phương diện ghi âm Ngữ âm học, bao giờ người ta cũng ghi âm các âm tố trong ngoặc vuông.
- Về mặt tiềm năng, Ngữ âm học không thể nghiên cứu tiến trình lịch sử của âm thanh vì dung lượng âm thanh của thế giới là đồng nhất.
- Do vậy, về lĩnh vực ngữ âm, không có Ngữ âm học văn minh hay Ngữ âm học lạc hậu, không có hệ thống ngữ âm tối ưu hay không tối ưu.
- Ngữ âm học mang tính quốc tế và thuộc về ngành của khoa học tự nhiên, sử dụng các phương tiện nghiên cứu của khoa học tự nhiên.
- Nói đến Ngữ âm học, người ta nói đến 3 ngành có liên quan nhưng có sự phân biệt tương đối rõ ràng [2-6].
- Đó là Ngữ âm học cấu âm (Articulatory phonetics), Ngữ âm học âm học (Acoustic phonetics) và Ngữ âm học thính âm (Auditory phonetics).
- Nếu Ngữ âm học cấu âm chuyên nghiên cứu cách thức các cơ quan cấu âm được sử dụng để tạo âm, thì Ngữ âm học chuyên nghiên cứu các đặc tính vật lí của âm, còn Ngữ âm học thính âm lại chủ yếu nghiên cứu độ thính âm người nghe có thể nhận biết được..
- Âm vị học.
- Âm vị học nghiên cứu âm thanh của một cộng đồng người cụ thể, một ngôn ngữ cụ thể.
- Đối tượng nghiên cứu của Âm vị học là các âm vị (phonemes).
- Ví dụ trong tiếng Anh, từ “sip” (nhấp nháp, uống từng hớp) khác với từ “zip” (cài hoặc mở bằng khoá kéo) do có sự khác biệt về nội dung Âm vị.
- Hơn thế nữa, ghi âm Âm vị học [4-6].
- Đó là mỗi âm vị bao giờ cũng được biểu hiện bằng con chữ in thường (không phải con chữ in hoa hoặc chữ viết thông thường) trong 2 gạch chéo như /s/ và /z/ đã nêu.
- Tận dụng các nội dung của Ngữ âm học, Âm vị học nghiên cứu bản chất tín hiệu ngôn thanh trong một bối cảnh giao tiếp cụ thể của một cộng đồng người cụ thể.
- Do đó, người ta có thể nói rằng, Âm vị học mang tính dân tộc hoặc chủng tộc.
- Ngoài ra, Âm vị học còn nghiên cứu về tiến trình của một ngôn ngữ, mỗi âm vị trong một ngôn ngữ cụ thể.
- Vậy, Âm vị học là Âm vị học của lịch sử tiến hoá.
- Đằng sau mỗi âm vị là lịch sử của một dân tộc.
- Âm vị học hình dung hệ thống âm thanh của một ngôn ngữ như sau:.
- Danh sách các âm vị của ngôn ngữ đang xem xét (bao giờ cũng hữu hạn)..
- Quan hệ của các âm vị ấy trong việc cấu thành hệ thống âm thanh của một ngôn ngữ..
- Danh sách âm vị là sự liệt kê các đơn vị âm thanh có chức năng khu biệt nghĩa của một ngôn ngữ.
- Danh sách các âm vị ấy chỉ có giá trị trong một ngôn ngữ, và hệ thống âm thanh ấy có thể được chia thành các đơn vị chiết đoạn (segmental units), và các đơn vị thượng chiết đoạn hoặc các đơn vị siêu chiết đoạn (suprasegmental units).
- Chúng ta có thể hình dung hệ thống âm thanh của một ngôn ngữ nào đó, chẳng hạn như tiếng Anh, trong sơ đồ như sau:.
- Các thế đối lập âm vị học (phonological oppositions).
- Theo các nhà ngôn ngữ học gạo cội [4-7].
- cho đến nay, có 3 loại thế đối lập âm vị học.
- khác nhau vì còn tuỳ thuộc vào mối tương quan của các nét khu biệt có trong nội dung âm vị học (phonological content).
- Đó là thế đối lập có/không (privative opposition), thế đối lập thành bậc (gradual opposition) và thế đối lập đẳng trị (equipolent opposition)..
- Thế đối lập có/không là một trong các thế đối lập mạnh trong Âm vị học vì nó được tạo nên bởi sự hiện diện hay vắng mặt của một nét khu biệt nào đó, ví dụ:.
- Nội dung Âm vị học của /t/ Nội dung Âm vị học của /d/.
- Các đơn vị đoạn tính (segmental.
- Các đơn vị siêu đ oạn tính (suprasegmental.
- Nguyên âm (vowels).
- Nhìn vào nội dung Âm vị học của /t/ và /d/, ta thấy đối lập có/không ở đây là vô thanh/hữu thanh.
- Tương tự như vậy, chúng ta có thể thấy thấy đối lập có/không ở /p/, /b/;.
- Đối lập thành bậc là đối lập âm vị học mà thuộc tính đang quan tâm được thể hiện ở.
- các vế đối lập theo những mức độ khác nhau..
- Thế đối lập thành bậc thường được dùng trong các tiểu hệ thống nguyên âm của các ngôn ngữ.
- Hệ thống âm vị nguyên âm trong tiếng Anh sau đây là một trong những ví dụ minh hoạ của chúng tôi:.
- Nguyên âm.
- Nếu quan sát bảng nguyên âm của hệ thống âm vị nguyên âm tiếng Anh nêu trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy một kiểu thế đối lập thành bậc như cao, trung bình, thấp hoặc trước, giữa, sau….
- Đối lập đẳng trị là kiểu đối lập mà giữa 2 vế không có điểm nào tương đồng ngoài một điểm chung duy nhất vì đều là các âm vị của một ngôn ngữ, chẳng hạn như:.
- âm thanh môn (glottal).
- hữu thanh (voiced) Nhìn vào nội dung âm vị học của /p/ và /h/ chúng ta thấy rằng 2 âm vị này hầu như chẳng có đặc điểm gì tương đồng ngoài tính phụ âm giữa chúng.
- Đối lập đẳng trị này không giúp người nghiên cứu khai thác được gì về cấu trúc ngoài sự khai thác về nghĩa bởi âm vị /p/ khác /h/ làm cho từ “pot” (nồi, ấm) khác với từ “hot” (nóng)..
- Trong 3 loại đối lập trên, loại đối lập có/không thường có giá trị thiết lập tính hệ thống, làm cho hệ thống chặt chẽ hơn.
- Đối lập thành bậc lại hay gặp trong các tiểu hệ thống nguyên âm hoặc trong các hiện tượng ngữ âm thể hiện tính liên tục của tự nhiên..
- Khái niệm đối lập thành bậc hiện nay dần trở thành tập mờ (fuzzy set) trong ngữ dụng học (pragmatics), ngữ nghĩa - cú pháp và ngữ pháp chức năng..
- Giá trị của Ngữ âm học và Âm vị học trong quá trình dạy - học, KTĐG ngoại ngữ.
- Trước hết, tác giả bài viết này xin khẳng định rằng trong quá trình nghiên cứu, nghiên cứu viên có thể đi sâu vào một trong 2 lĩnh vực Âm vị học hoặc Ngữ âm học vì mục đích nghiên cứu của mình.
- Nhưng, trong quá trình dạy - học, KTĐG, quan niệm của chúng tôi là không nên tách biệt mà chỉ nên phân biệt 1 trong 2 vấn đề vừa nêu nếu thấy cần.
- Trong quá trình dạy - học ngoại ngữ.
- Theo quan sát, nhận xét, đánh giá của chúng tôi (bằng khảo sát sư phạm và điều tra điền dã), do hiểu biết rõ ràng, tương đối hệ thống về Ngữ âm học và Âm vị học nên trong quá trình dạy - hoc ngoại ngữ, chẳng hạn tiếng Anh, nhiều giáo viên đã biết dạy nội dung gì, đến mức độ nào và luyện tập ra sao cho phù hợp với đối tượng, với chương trình.
- Theo quan niệm của chúng tôi, giáo viên không nên dạy thuần tuý lí thuyết về những nội dung vốn rất khó và trừu tượng của Ngữ âm học và Âm vị học tiếng Anh, trừ khi đó là chuyên đề dành cho sinh viên chuyên Anh văn hoặc các nghiên cứu viên..
- Do vậy, khi đề cập đến những vấn đề về các đơn vị đoạn tính/chiết đoạn như nguyên âm và phụ âm tiếng Anh (English vowels and consonants) thì chỉ nên giới hạn trong khuôn khổ hệ thống âm vị tiếng Anh (12 nguyên âm đơn, 8 nguyên âm đôi và 24 phụ âm) và những nội dung âm vị học cơ bản của chúng (như vô thanh, hữu thanh, tắc, xát, bật…)..
- Vấn đề cơ bản là người học phải nhận thức được rằng các âm vị luôn tồn tại ở thế đối lập (thế đối lập có/không, thế đối lập thành bậc, đối lập đẳng trị) mà chúng tôi đã trình bày ở mục 3 của bài viết này, chẳng hạn /t/ và /d/.
- chỉ phân biệt nhau ở nội dung âm vị học vô thanh/hữu thanh khi chúng ở thế đối lập có/không (xin xem 3.1).
- gồm trọng âm từ (word stress), trọng âm ngữ đoạn (phrase stress), trọng âm câu (sentence stress), nhịp điệu (rhythm) và ngữ điệu (intonation)… bởi đó là những đơn vị siêu đoạn tính có ảnh hưởng rất nhiều đến biểu thái, làm nổi bật thông tin, ngữ nghĩa, giúp phân định từ loại… trong quá trình diễn ngôn, hành chức qua từng ngôn cảnh, tình huống cụ thể [1,2].
- Do vậy, trong quá trình dạy - học tiếng Anh, ngoài việc bồi dưỡng, nâng cao kiến thức ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) theo chương trình quy định và các kĩ năng ngôn ngữ như nghe hiểu, diễn đạt nói, đọc.
- Trong quá trình KTĐG ngoại ngữ.
- Điều này quả không sai, nhưng chưa đủ, bởi tính đặc thù của sinh ngữ (living language) là phải được sử dụng thường xuyên qua các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết - cho dù tỉ trọng dành cho mỗi kĩ năng ngôn ngữ vừa nêu có thể khác nhau vì mục đích sử dụng ngôn ngữ cho phù hợp trong từng ngành nghề là không như nhau..
- Chúng ta có thể thấy được sự thay đổi này trong cấu trúc một vài đề thi tiếng Anh dưới đây:.
- Năm học Cấu trúc đề thi tốt nghiệp Trung học Cơ sở (Theo đề thi chính thức của Sở GD – ĐT Hà Nội) Kĩ năng ngôn ngữ (Language skills) Kiến thức ngôn ngữ (Language components).
- Ngữ âm.
- Kĩ năng ngôn ngữ (Language skills) Kiến thức ngôn ngữ (Languagecomponents) (Thực hành).
- Kĩ năng ngôn ngữ (Language skills) Kiến thức ngôn ngữ (Language components) (Thực hành).
- Nếu nghiên cứu kĩ lưỡng các cấu trúc đề thi môn tiếng Anh qua những tiểu mục và 4.2.4 thì chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy sự thay đổi về tỉ trọng và nội dung KTĐG - không những vẫn theo hướng thực hành, mà còn đặc biệt lưu ý đến lĩnh vực Ngữ âm học và Âm vị học (lần lượt từ 0%, 0% đến 10%, 10.
- Từ thống kê mang tính so sánh đối chiếu trong lĩnh vực Ngữ âm học và Âm vị học thông qua các cấu trúc trong một số đề thi môn tiếng Anh, chúng tôi mong muốn được đưa ra cấu trúc đề thi môn tiếng Anh để tham khảo như sau:.
- Cấu trúc đề thi môn tiếng Anh (Đề tham khảo).
- Kĩ năng ngôn ngữ (Language skills) Kiến thức ngôn ngữ (Language components) (Thực hành) Nghe - Nói dưới.
- thì lĩnh vực ngữ âm thường có các vấn đề sau đáng được quan tâm, KTĐG và chọn lựa để đạt được 10% tổng số điểm bài thi theo thiết kế cụ thể.
- Đó là các đơn vi chiết đoạn như nguyên âm, phụ âm và các đơn vị siêu đoạn tính như trọng âm (trọng âm từ, trọng âm ngữ đoạn, trọng âm câu), nhịp điệu và ngữ điệu.
- bởi đó là những đơn vị có ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình hình thành và phát triển khẩu ngữ..
- Trong tiểu mục này, điều chúng tôi mong muốn là nhấn mạnh đến một số giá trị cần yếu của Ngữ âm học và Âm vị học trong quá trình dạy - học, KTĐG ngoại ngữ - cụ thể là tiếng Anh - một trong những ngoại ngữ rất phổ biến ở Việt Nam hiện nay..
- Với bài viết này, tác giả hi vọng sẽ có thể góp phần khẳng định và nhấn mạnh tầm quan trọng của Ngữ âm học và Âm vị học, không những trong lĩnh vực thuần tuý nghiên cứu mà cả trong lĩnh vực giảng dạy, bởi đó mới là điều cốt yếu trong ngôn ngữ học ứng dụng mà các giáo viên, giảng viên và các nhà quản lí giáo dục cần hướng tới..
- Có thể quan niệm và quan điểm khoa học giữa các tác giả còn chưa tương đồng về một vài vấn đề nào đó khi nhìn nhận Ngữ âm học và Âm vị học, nhưng tác giả bài viết không.
- Đó cũng chính là một trong các cách tiếp cận, phát triển vấn đề mà tác giả bài báo Những vấn đề cốt yếu của Ngữ âm học và Âm vị học đặt ra..
- trọng âm, nhịp điệu, ngữ điệu… trong cùng một loạt nội dung có liên quan khác mà tác giả chưa thể nêu ra trong bài báo, thì chắc chắn rằng quá trình dạy - học, KTĐG ngoại ngữ nói chung, tiếng Anh nói riêng sẽ ngày càng hiệu quả hơn..
- Vì giá trị của Ngữ âm học và Âm vị học trong quá trình dạy - học, KTĐG ngoại ngữ nên chúng tôi hi vọng rằng sẽ có sự điều chỉnh phù hợp không những trong giảng dạy mà ngay cả trong KTĐG.
- Giảng dạy ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng với những nội dung cơ bản của Ngữ âm học và Âm vị học như chúng tôi đã trình bày trong bài viết này không những có tính khả thi trong môi trường phi bản ngữ ở Việt Nam, mà còn phù hợp với xu hướng giảng dạy ngoại ngữ hiện nay trên thế giới, trong đó có những nước tương tự như Việt Nam..
- [8] Nguyễn Huy Kỷ, Ngữ điệu Anh - Ngữ điệu Việt, nhìn từ góc độ ngôn ngữ học đối chiếu, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội tập XVI, số .
- [9] Nguyễn Huy Kỷ, Tìm hiểu một số quan hệ cơ bản giữa ngữ điệu và các phương tiện khác có liên quan, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống số 1, số .
- [10] Nguyễn Huy Kỷ, Ngữ điệu tiếng Anh ở người Việt, Tạp chí Ngôn ngữ số .
- [13] Nguyễn Huy Kỷ, Trọng âm từ, xuất phát điểm của việc nghiên cứu nhịp điệu tiếng Anh, Tạp chí Ngôn ngữ số .
- [14] Nguyễn Huy Kỷ, Ngữ điệu tiếng Anh và các chức năng, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội tập XX, số