« Home « Kết quả tìm kiếm

Nhung yeu to anh huong den chat luong dao tao tieng Anh khong chuyen DHQGHN


Tóm tắt Xem thử

- tiếng Anh không chuyên ở Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Bài viết giải thích tại sao chất lượng đào tạo tiếng Anh không chuyên ở Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) vẫn còn thấp kém.
- Dạy tiếng Anh không chuyên [1] ở các trường đại học Việt Nam được bắt đầu từ phần sau của thế kỉ 20.
- Hiện nay, tiếng Anh là ngoại ngữ quan trọng nhất chiếm ưu thế hầu như tuyệt đối trong giáo dục ngoại ngữ ở các trường đại học Việt Nam.
- Tuy nhiên, cho đến tận thời điểm này của bài viết, chưa có một công trình đáng kể nào nghiên cứu về chất lượng đào tạo tiếng Anh ở các trường đại học Việt Nam nói chung và ở ĐHQGHN nói riêng.
- Trả lời câu hỏi thứ hai, chúng tôi sẽ trình bày một phần hiện trạng của dạy học tiếng Anh không chuyên ở ĐHQGHN, nêu bật những nguyên nhân có thể gây ra chất lượng thấp kém trong đào tạo tiếng Anh không chuyên.
- Phần cuối cùng, chúng tôi sẽ tóm tắt lại những nội dung chính thảo luận trong bài viết, đề xuất một số khuyến nghị nhằm khắc phục những tồn tại trong đào tạo tiếng Anh không chuyên ở ĐHQGHN, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo môn học này, đáp ứng nhu cầu hội nhập giáo dục đại học khu vực và toàn cầu hóa..
- Trình độ tiếng Anh đầu vào đa dạng và không đồng đều, chất lượng đầu vào thấp, tiếng Anh không phải là môn thi tuyển đầu vào.
- Để có được nhận định về trình độ tiếng Anh đầu vào đa dạng và không đồng đều của sinh viên năm thứ nhất, ĐHQGHN, nhóm nghiên cứu thuộc Đề tài trọng điểm cấp ĐHQGHN, Mã số QGTĐ 0511 đã tiến hành một cuộc điều tra trên diện rộng về tình hình dạy-học tiếng Anh không chuyên ở ĐHQGHN và một nghiên cứu nhỏ, kiểm tra trình độ tiếng Anh đầu vào của sinh viên năm thứ nhất, Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN.
- Cuộc điều tra được thực hiện thông qua công cụ phiếu hỏi gồm 25 câu trong đó có câu hỏi 3 tìm hiểu thời lượng sinh viên ĐHQGHN đã được học tiếng Anh ở trung học phổ thông (THPT).
- Kết quả cho thấy trong số 3663 sinh viên năm thứ nhất của ĐHQGHN năm học trả lời câu hỏi, 1730 sinh viên trả lời đã được học 300 tiết tiếng Anh ở THPT (hệ 3 năm), chiếm 62,48%.
- số còn lại 857 sinh viên hoặc không được học tiếng Anh hoặc được học những ngoại ngữ khác, chiếm khoảng 23%..
- Để có được nhận định rằng trình độ tiếng Anh đầu vào của sinh viên ĐHQGHN thấp, nhóm nghiên cứu đã tiến hành kiểm tra trình độ tiếng Anh đầu vào của sinh viên năm thứ nhất Trường Đại học Công nghệ năm học .
- Công việc kiểm tra được thực hiện thông qua hình thức thi để chọn ra 25 sinh viên tham dự lớp tiếng Anh dạy thử nghiệm theo nội dung và phương pháp mà nhóm nghiên cứu của đề tài đề xuất.
- Bài thi tiếng Anh được lấy từ một bài trong Key English Test (KET).
- KET là bài thi ở trình độ thứ nhất trong thang năm trình độ của hệ thống thi CESLE (Tiếng Anh Cambridge như là ngôn ngữ thứ hai - Cambridge English as a Second Language Examinations), một hệ thống thi tiếng Anh có uy tín trên thế giới hiện nay.
- Giống như các hệ thống thi tiếng Anh theo mô hình Anh, KET kiểm tra khả năng giao tiếp bằng tiếng Anh của người học dưới hai hình thức kiểm tra nói và viết theo bốn khu vực kĩ năng: nghe, nói, đọc, và viết.
- Kết quả của hai bài thi viết và nói cho thấy trong số 25 thí sinh, chỉ có 1 thí sinh đạt điểm tổng 7,5/10 cho bốn khu vực kĩ năng giao tiếp bằng tiếng Anh.
- Kế theo đó là kĩ năng viết câu tiếng Anh khoảng 35%.
- Những kết quả này khẳng định cho nhận định rằng chất lượng đầu vào môn tiếng Anh của sinh viên ĐHQGHN thấp là đúng và nhận định này cũng có thể được áp dụng cho sinh viên các trường đại học khác ở Việt Nam.
- Tuy nhiên, với tiếng Anh thì tình hình dường như ngược lại.
- Trừ một số ít sinh viên thi khối D (gồm ba môn toán, văn, và ngoại ngữ), đa số sinh viên của ĐHQGHN không thi đầu vào bằng tiếng Anh.
- Bức tranh chung vẫn là tất cả sinh viên thuộc các nhóm trình độ khác nhau đều phải bắt đầu học tiếng Anh từ đầu, cùng một trình độ.
- Lí do đơn giản là họ thấy bị tụt hậu trước một số bạn bè trong lớp, trong khối có trình độ tiếng Anh cao hơn họ.
- Những nguyên nhân nào dẫn đến chất lượng yếu kém trong đào tạo tiếng Anh không chuyên ở ĐHQGHN? Có nhiều nguyên nhân dẫn đến chất lượng yếu kém trong đào tạo tiếng Anh không chuyên ở ĐHQGHN, tám nguyên nhân dưới đây có thể là đại diện.
- Vậy đích của học tiếng Anh không chuyên và mục tiêu của các môn học tiếng Anh trong từng giai đoạn học tập và trong từng bậc học từ cử nhân đến tiến sĩ ở ĐHQGHN là gì? Nghiên cứu các văn bản hiện hành ở ĐHQGHN cho thấy cho đến thời điểm này ĐHQGHN chưa có đích cho môn học.
- Về mục tiêu, có thể nói rằng trong các đơn vị được ĐHQGHN giao nhiệm vụ dạy tiếng Anh từ bậc cử nhân đến tiến sĩ, chưa có đơn vị nào có mục tiêu giảng dạy một cách hiển ngôn cho môn tiếng Anh.
- Ba tài liệu duy nhất đề cập đến mục tiêu dạy tiếng Anh nhưng dường như không có mối liên hệ với nhau nhiều là Thực trạng đào tạo ngoại ngữ không chuyên các ngành khoa học xã hội nhân văn: đề xuất giải pháp và chương trình chi tiết - đề tài nghiên cứu khoa học đặc biệt cấp Đại học Quốc gia Hà Nội của Vũ Thị Ninh và các tác giả khác [5], Đề cương môn tiếng Anh nâng cao (4 tín chỉ) và Đề cương môn tiếng Anh chuyên ngành nâng cao (3 tín chỉ) do Khoa Sau Đại học, ĐHQGHN.
- Đối với môn tiếng Anh không chuyên ở ĐHQGHN, người ta mới chỉ thấy khung thời lượng bao gồm 28 đơn vị học trình (tương ứng với 420 tiết trên lớp theo phương thức đào tạo truyền thống) hay 14 tín chỉ (tương ứng với 630 tiết tiếp xúc trên lớp theo phương thức đào tạo tín chỉ).
- Trong khi ở bậc cử nhân Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (trừ Khoa Quốc tế, Khoa Du lịch và Khoa Đông phương) và Trường Đại học Ngoại ngữ thực hiện dạy 420 tiết trong đó 300 tiết dành cho tiếng Anh chung và 120 tiết dành cho tiếng Anh chuyên ngành thì Trường Đại học Khoa học Tự nhiên lại phân bổ thời lượng theo một cách khác.
- Một điểm quan trọng đáng lưu ý nữa là, cho đến tận thời điểm này, dạy tiếng Anh như là một môn học ở ĐHQGHN vẫn còn đang lúng túng, chưa xác định được trình độ đầu ra tổng thể cho môn học.
- những nội dung, những kĩ năng nào của tiếng Anh người học cần và phải học ở từng giai đoạn học tập (từng học kì) và ở từng bậc học (từ cử nhân đến cao học và đến tiến sĩ) vẫn chưa được thể hiện một cách hiển ngôn.
- Người ta sẽ rất khó có câu trả lời thỏa đáng cho tất cả những câu hỏi này bởi chúng thể hiện những xu hướng dạy tiếng Anh khác nhau, đôi khi đối lập nhau.
- Và nếu cho rằng dạy tiếng Anh là để giao tiếp về chuyên ngành của người học thì có thể là một chủ trương không tưởng, bởi lẽ chỉ với một lượng thời gian lên lớp theo quy định hiện tại (210 tiết tiếp xúc trên lớp giữa người dạy và người học cho bậc cử nhân, 135 tiết tiếp xúc trên lớp cho bậc cao học) thì dạy tiếng Anh sẽ không có cách nào thực hiện được mục tiêu này.
- Để có thể trao đổi hoặc giao tiếp về chuyên môn bằng tiếng Anh theo gợi ý của nhiều nhà chuyên môn, người học tiếng Anh không chuyên ở ĐHQGHN phải được học theo hình thức tăng cường với lượng thời gian dài ít nhất gấp 3 hoặc 4 lần lượng thời gian phân bổ cho môn tiếng Anh ở cả hai bậc cử nhân và cao học cộng lại.
- Giáo trình tiếng Anh không chuyên ở ĐHQGHN chưa được biên soạn một cách có hệ thống.
- Nghiên cứu những giáo trình tiếng Anh được sử dụng hiện hành ở các cơ sở đào tạo thuộc ĐHQGHN, người ta dễ dàng nhận thấy rằng, do thiếu đích môn học và mục tiêu cho từng giai đoạn học tập cho nên nội dung giảng dạy chưa được biên soạn và lựa chọn một cách hợp lí và có hệ thống.
- Hầu hết các giáo trình tiếng Anh hoặc được lấy nguyên xi hoặc được chỉnh biên từ những giáo trình tiếng Anh do người nước ngoài biên soạn.
- Sự đa dạng, thiếu nhất quán, không phù hợp với đích và những mục tiêu của môn học thể hiện rõ nét nhất trong các giáo trình tiếng Anh chuyên ngành do người nước ngoài biên soạn.
- Như có thể thấy, tiếng Anh chuyên ngành có nguồn gốc từ những nước nói tiếng Anh từ những năm 60 của thế kỉ trước.
- Trong số các ngữ vực tiếng Anh được dạy cho sinh viên nước ngoài trước khi vào học ở các trường đại học trong các nước nói tiếng Anh, tiếng Anh cho khoa học và công nghệ (English for Science and Technology) là ngữ vực được quan tâm nhất ở những năm 1960 và những năm 1970.
- Phong trào dạy tiếng Anh chuyên ngành được du nhập mạnh mẽ vào các nước thế giới thứ ba, đặc biệt là vào Việt Nam từ những năm 1980 của thế kỉ trước bởi những giáo viên được gửi sang học các chương trình sau đại học về dạy tiếng Anh như là ngôn ngữ thứ hai/ngoại ngữ ở các nước nói tiếng Anh.
- Tuy nhiên, dạy tiếng Anh chuyên ngành, mặc dù có tên gọi hấp dẫn, đã gặp không ít khó khăn ở Việt Nam.
- Nó chỉ có thể có được thành công nào đó trong khu vực tiếng Anh cho các mục đích nghề nghiệp (English for Occupational Purposes) như tiếng Anh cho du lịch, tiếng Anh cho giao dịch thương mại, tiếng Anh cho kinh doanh, v.v.
- Bước vào địa hạt của tiếng Anh cho các mục đích khoa học (English for Academic Purposes), đặc biệt là tiếng Anh dành cho các chuyên ngành ở bậc đại học trở nên, thì dạy tiếng Anh chuyên ngành dường như gặp phải thế lưỡng đao.
- Nếu các trung tâm tiếng Anh (cả trong nước và ngoài nước) có thể dạy thành công ngữ vực tiếng Anh đại cương, tiếng Anh chuyên ngành đại cương và tiếng Anh cho các mục đích nghề nghiệp thì họ dường như không có chỗ đứng trong dạy tiếng Anh cho các mục đích khoa học và tình huống này cũng tương tự đối với chủ trương dạy tiếng Anh cho các mục đích khoa học ở các trường đại học Việt Nam.
- Khó khăn chủ yếu nằm ở chỗ là cả tiếng Anh chuyên ngành và tiếng Anh cho các mục đích học thuật ở các trường đại học Việt Nam đều chưa trả lời được câu hỏi: “Dạy tiếng Anh cho các mục đích khoa học là dạy cái gì, cung cấp từ ngữ liên quan đến ngành khoa học hay dạy những nội dung của ngành học bằng tiếng Anh.
- Người ta có thể đúng khi cho rằng không có cái gọi là tiếng Anh cho các mục đích khoa học mà chỉ có tiếng Anh khoa học và do đó dạy tiếng Anh khoa học chính là dạy học khoa học thông qua phương tiện tiếng Anh.
- Và nếu quan điểm này được chấp nhận thì cái gọi là tiếng Anh chuyên ngành ở các trường đại học Việt Nam nói chung và ở ĐHQGHN nói riêng dường như là một khái niệm bị dẫn nhầm và tiếng Anh khoa học là một cái gì đó người giáo viên ngoại ngữ không thể dạy được.
- người ta chỉ dạy tiếng Anh chung còn tiếng Anh chuyên ngành thì lại được giao cho các giáo viên chuyên môn đảm nhiệm.
- Đây là một giải pháp tình thế, không có hiệu quả bởi lẽ rất nhiều giáo viên chuyên môn không có đủ trình độ tiếng Anh để dạy, và nếu họ có một trình độ tiếng Anh nào đó thì họ lại không có phương pháp giảng dạy môn học này.
- Kết quả là, tiếng Anh chuyên ngành dường như không có lí do tồn tại và người ta vẫn không biết sau khi kết thúc một bậc học học tiếng Anh chuyên ngành (cử nhân hoặc thạc sĩ, tiến sĩ) thì trình độ và kĩ năng người học được yêu cầu phải đạt được là bao nhiêu và ở mức nào..
- Về giáo trình tiếng Anh chuyên ngành ở ĐHQGHN, cũng có thể đánh giá chung là chưa được biên soạn một cách có hệ thống.
- Những giáo trình tiếng Anh này được biên soạn từ hai phong trào dạy - học tiếng Anh chuyên ngành ở các nước nói tiếng Anh: tiếng Anh cho các mục đích học thuật (English for academic purposes) và tiếng Anh cho các mục đích cụ thể (English for specfic purposes).
- Lớp học không đạt chuẩn, số sinh viên trong một lớp học tiếng Anh đông, phương tiện hỗ trợ dạy học nghèo nàn, thiếu môi trường thực hành.
- Bổ sung vào khó khăn về cơ sở vật chất là số lượng sinh viên quá đông trong một lớp học, thiết bị dạy tiếng Anh và nguồn học liệu để tham khảo nghèo nàn.
- Điều tra của nhóm nghiên cứu thuộc Đề tài trọng điểm cấp ĐHQGHN, Mã số QGTĐ 0511 ở các đơn vị đào tạo thuộc ĐHQGHN cho thấy số sinh viên trong một lớp tiếng Anh khoảng 35 - 40, thường gấp hơn hai lần số sinh viên của một lớp học ngoại ngữ chuẩn.
- thiết bị giảng dạy tiếng Anh trong lớp chủ yếu vẫn là bảng, phấn (bút phớt) và máy cát xét.
- Một điểm đáng chú ý khác là hầu như không có đơn vị đào tạo nào có những cơ sở vật chất, trang thiết bị và nguồn học liệu bổ sung để hỗ trợ riêng biệt cho việc tự học tiếng Anh của sinh viên..
- Giáo viên chưa được đào tạo để dạy tiếng Anh không chuyên và tiếng Anh chuyên ngành.
- Theo thống kê mới nhất vào cuối năm 2007, số giáo viên dạy tiếng Anh chuyên ngành của các đơn vị trong ĐHQGHN cả biên chế và hợp đồng là 139 bao gồm Bộ môn Ngoại ngữ, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên 35.
- Trong khi học ở trường đại học, những giáo viên này được dạy theo phương pháp dạy tiếng Anh chuyên (tiếng Anh như là một ngành học) chủ yếu thuộc ngữ vực tiếng Anh đại cương.
- Họ chưa được đào tạo để dạy tiếng Anh không chuyên (tiếng Anh như là một môn học), đặc biệt là tiếng Anh chuyên ngành.
- Chính vì vậy, khi được giao nhiệm vụ dạy tiếng Anh không chuyên cho sinh viên ở các đơn vị đào tạo trong ĐHQGHN, nhiều giáo viên tỏ ra lúng túng về phương pháp, nhất là phương pháp dạy tiếng Anh chuyên ngành.
- Kết quả là, nhiều sinh viên hoang mang, lo sợ, dẫn đến học đối phó, không học tiếng Anh để giao tiếp mà chỉ học với mục đích để đỗ thi.
- Khó khăn thực sự nảy sinh khi giáo viên tiếng Anh không chuyên được giao nhiệm vụ dạy tiếng Anh chuyên ngành.
- Tuy nhiên, khi được giao nhiệm vụ dạy tiếng Anh cho các ngành “khoa học cứng” (hard sciences) như toán, lí, hóa, v.v.
- Trong khi đó, những nội dung được dạy có thể đã được sinh viên biết rất rõ thông qua học các môn chuyên môn bằng tiếng Việt, không cần phải học bằng tiếng Anh thì họ mới biết..
- Chưa xử lí đúng mối quan hệ giữa mục đích, động cơ, nhu cầu và mong muốn học tiếng Anh của sinh viên.
- Nghiên cứu của nhóm nghiên cứu thuộc Đề tài trọng điểm cấp ĐHQGHN, Mã số QGTĐ 0511 cho thấy rằng sinh viên ĐHQGHN có mục đích, nhu cầu và mong muốn học tiếng Anh hết sức đa dạng.
- Trong số 4663 phiếu hỏi thu được với câu hỏi liên quan đến mục đích, động cơ và nhu cầu học tiếng Anh ở trường đại học: “Xin anh/chị cho biết mục đích của anh/chị học tiếng Anh để làm gì?” 1930 phiếu (khoảng 41,4%) trả lời để đỗ trong các kì kiểm tra/thi, 1868 phiếu (khoảng 35,8%) trả lời để tiếp tục nghiên cứu sau khi tốt nghiệp đại học.
- Xử lí đúng mối quan hệ giữa mục đích, động cơ, nhu cầu và mong muốn học tiếng Anh của sinh viên, kết hợp với việc hướng họ theo đích của môn học, cho họ biết những mục tiêu đặt ra trong từng giai đoạn học tập, thiết kế được những nội dung dạy học phong phú và sử dụng phương pháp dạy học phù hợp nhất định sẽ giúp nâng cao chất lượng học tiếng Anh không chuyên của sinh viên ở ĐHQGHN.
- Học tiếng Anh dường như không có nhiều liên hệ với phát triển và nâng cao kiến thức chuyên môn của người học.
- họ phải học để có thể đọc được những tài liệu chuyên môn bằng tiếng Anh và để lấy tư liệu tham khảo cho luận văn hoặc luận án tốt nghiệp của họ.
- Có những cách hiểu khác nhau về đánh giá trình độ và kĩ năng giao tiếp tiếng Anh đầu ra và về môn tiếng Anh trong một chương trình.
- Có nhiều quan điểm khác nhau về cách đánh giá trình độ và kĩ năng giao tiếp tiếng Anh đầu ra sinh viên ĐHQGHN cần phải đạt được, nhưng hai quan điểm sau đây chiếm ưu thế.
- Quan điểm thứ nhất cho rằng cách đánh giá trình độ và kĩ năng giao tiếp tiếng Anh của sinh viên ĐHQGHN tốt nhất là thông qua một trong hai hệ thống kiểm tra hiện hành và có uy tín trên thế giới: TOEFL (Tests of English as a Foreign Language - Hệ thống kiểm tra tiếng Anh như là một ngoại ngữ) và IELTS (International English Language Testing System - Hệ thống kiểm tra ngôn ngữ tiếng Anh quốc tế).
- Với quan điểm thứ nhất, phải khẳng định rằng chủ trương lấy một trong hai hệ thống kiểm tra TOEFL hoặc IELTS làm chuẩn đánh giá là chủ trương hiện đại, theo thời trang nhưng không phù hợp với thực tế dạy-học tiếng Anh không chuyên ở ĐHQGHN.
- Như có thể thấy, TOEFL và IELTS là hai hệ thống kiểm tra năng lực tiếng Anh tổng thể (proficiency test), dùng để kiểm tra trình độ và kĩ năng giao tiếp bằng tiếng Anh của những thí sinh muốn đi học (đại học hoặc sau đại học) ở các nước nói tiếng Anh.
- Lấy bài thi tiếng Anh hết học kì 6 cho ngành ngôn ngữ học năm học 2007-2008 làm ví dụ.
- Với nội dung thi như vậy, thí sinh không có cơ hội để thể hiện khả năng giao tiếp khẩu ngữ, đặc biệt là kĩ năng viết tiếng Anh.
- Nó lí giải tại sao, mặc dù có thể đã được học ít nhất nhất 300 tiết ở phổ thông và 420 tiết ở bậc cử nhân nhưng sau khi tốt nghiệp đại học (trừ những sinh viên học tiếng Anh theo hệ tại chức hoặc chuyên ngành hai) đa số sinh viên của ĐHQGHN vẫn không thể nghe, nói và viết được bằng tiếng Anh.
- Những thước đo chưa hoàn chỉnh kết hợp với những cách hiểu khác nhau về sử dụng thước đo đánh giá trình độ và kĩ năng giao tiếp tiếng Anh đầu ra sinh viên ĐHQGHN dẫn đến kết quả là, những người dạy tiếng Anh bị mất phương hướng, không biết kiểm tra trình độ của người học theo phương thức nào là đúng, là phù hợp.
- Mặt khác, như trên đã đề cập, do không có đích cho môn học và mục tiêu cho từng giai đoạn học tập cho nên tiếng Anh không được chia ra thành những môn học hoặc các nhóm kiến thức, kĩ năng khác nhau.
- Thiếu cơ chế khuyến khích dạy - học chuyên môn bằng tiếng Anh.
- Như trên đã đề cập, nếu chỉ dạy tiếng Anh như là một môn học thì chất lượng đào tạo cho dù có cố gắng đến mấy vẫn chỉ có giới hạn nhất định của nó.
- Để có thể dạy và học chuyên môn bằng tiếng Anh, trước hết cả giáo viên chuyên môn và sinh viên đều phải theo học tiếng Anh một cách bài bản.
- Trong trường hợp của ĐHQGHN, ngoài những thời lượng quy định của nhà nước cho môn học, vẫn chưa có dự án nào được phát triển để giúp giáo viên chuyên môn và sinh viên nâng cao trình độ tiếng Anh, và đặc biệt, chưa có chính sách khuyến khích người dạy và người học học chuyên môn bằng tiếng Anh.
- Điều này lí giải một phần tại sao mặc dù đã có những cố gắng rất lớn trong dạy tiếng Anh không chuyên, nhưng chất lượng đào tạo môn học này ở các trường đại học Việt Nam nói chung và ở ĐHQGHN nói riêng dường như vẫn dậm chân tại chỗ.
- Kết luận và một số đề nghị Trong bài viết này, chúng tôi đã cố gắng trả lời hai câu hỏi liên quan đến chất lượng thấp trong đào tạo tiếng Anh không chuyên ở ĐHQGHN và những nguyên nhân gây ra chất lượng thấp trong môn học này.
- Những gì trình bày trong bài viết đã chứng minh rằng nhận định cảm tính của một số người cho rằng chất lượng đào tạo môn tiếng Anh không chuyên còn thấp không phải là nhận định không có căn cứ.
- Trên cơ sở của những thực trạng đã thảo luận ở trên, để có thể nâng cao chất lượng đào tạo tiếng Anh không chuyên ở ĐHQGHN, chúng tôi xin đề xuất một số khuyến nghị sau đây.
- Triển khai xây dựng một chương trình tiếng Anh không chuyên tổng thể ở ĐHQGHN, bắt đầu từ xác định chuẩn đầu ra khi mọi sinh viên vào đại học đều đã được học tiếng Anh 7 năm ở trung học phổ thông (tương đương với 700 tiết tiếp xúc trên lớp).
- Xây dựng chương trình, tổ chức biên soạn các giáo trình, và xây dựng chuẩn đánh giá trình độ tiếng Anh đầu ra chung cho từng giai đoạn, từng cấp học để có thể thực hiện việc liên thông trong dạy, học và kiểm tra - đánh giá trong toàn ĐHQGHN.
- Xây dựng môi trường song ngữ trong học thuật bằng cách dạy các môn học chuyên môn bằng cả hai ngôn ngữ Việt và Anh, khuyến khích và có chế độ khuyến khích những giáo viên chuyên môn có khả năng dạy chuyên môn bằng tiếng Anh.
- được dạy thông qua tiếng Anh.
- Xây dựng môi trường tiếng Anh học thuật trong trường đại học sao cho cả người dạy và người học đều thấy có nhu cầu giao tiếp bằng tiếng Anh, biến tiếng Anh thành công cụ làm việc hàng ngày.
- Phấn đấu để môn học nào dạy được bằng tiếng Anh thì khuyến khích và triển khai dạy luôn.
- Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao năng lực tiếng Anh cho giáo viên các khoa chuyên môn để họ có thể dạy các môn học, đặc biệt là các môn học thuộc khối ngành tự nhiên, kinh tế, quản trị kinh doanh và công nghệ bằng tiếng Anh.
- Và chỉ có như vậy thì chúng ta mới hi vọng nâng cao được chất lượng đào tạo tiếng Anh không chuyên, đáp ứng nhu cầu hội nhập giáo dục đại học khu vực và toàn cầu hóa.