« Home « Kết quả tìm kiếm

Quan điểm quốc tế về thúc đẩy sinh viên đại học hiểu và làm nghiên cứu


Tóm tắt Xem thử

- Integrating Research in Higher Education : Developing A ‘Research Active Curriculum’ at The Hague University , October 2010 Đại học Quốc gia Hà Nội (VNU): Kết hợp giảng dạy và nghiên cứu:.
- Quan điểm quốc tế về thúc đẩy sinh viên đại học hiểu và làm nghiên cứu, 2010 Alan Jenkins: Giáo sư Danh dự, Đại học Oxford Brookes (Anh);.
- “Các trường đại học nên coi học tập là những vấn đề chưa giải quyết được triệt để và do đó luôn nằm trong trạng thái nghiên cứu”.
- “Chúng tôi muốn mọi sinh viên đều được tiếp cận những lợi ích mà quá trình giảng dạy có nghiên cứu có thể mang lại… Chúng tôi làm việc này vì tin rằng hiểu biết về quá trình nghiên cứu – biết cách đặt câu hỏi.
- đối chiếu và đánh giá thông tin – phải là trọng tâm của bất cứ chương trình đại học nào.
- Được thực hiện theo nghiên cứu: sinh viên học các kết quả nghiên cứu, nội dung chương trình phần lớn nằm trong các đề tài nghiên cứu của giáo viên, chuyển tiếp thông tin có thể là hình thức giảng dạy chính · Được định hướng theo nghiên cứu: sinh viên học các quá trình nghiên cứu, chương trình học đồng thời nhấn mạnh đến các quá trình sinh ra tri thức và việc những tri thức đã thu được, giáo viên cố gắng làm bật ra thuộc tính của nghiên cứu trong quá trình giảng dạy.
- hoặc · Trên cơ sở nghiên cứu: sinh viên học trong vai trò người nghiên cứu, phần lớn chương trình học được thiết kế quanh các hoạt động khảo sát điều tra, sự phân biệt giữa vai trò giáo viên và sinh viên được tối thiểu hóa.
- 1.1: Bản chất của điều tra và nghiên cứu của sinh viên.
- Một trục chỉ ra các cách kết hợp giảng dạy và nghiên cứu trên khía cạnh tập trung vào người dạy, và người học được coi là thính giả hoặc đối tượng tham gia.
- Trục thứ hai chỉ ra hướng tiếp cận chú trọng vào nội dung nghiên cứu hoặc các quá trình và khó khăn trong nghiên cứu.
- Các chương trình nhằm khuyến khích và hỗ trợ nghiên cứu của sinh viên nên tích cực giải quyết tất cả hoặc phần lớn những điểm sau.
- Liên quan rõ ràng đến “nghiên cứu của sinh viên”, “nghiên cứu của sinh viên trên cơ sở cộng đồng”, hoặc tương tự, và xác định lại khái niệm về “lấy người học làm trung tâm” hoặc “trên cơ sở điều tra” hoặc “trên cơ sở phân tích vấn đề”… và khái niệm “học” tương ứng.
- Điều chỉnh phương châm/ các giá trị của chương trình sao cho có thể khiến sinh viên (cùng các đối tượng khác như thủ thư, các nhà hoạt động cộng đồng) tham gia vào giới nghiên cứu..
- Khuyến khích, tạo điều kiện cho sinh viên học theo các cách song song hoặc phản ánh các hướng nghiên cứu/ học tập của đội ngũ giáo viên trong ngành/ chuyên môn của mình..
- Kết hợp cơ hội nghiên cứu với các quá trình hình thành và kết quả tổng hợp từ đánh giá môn học của sinh viên, theo những cách có thể phản ánh hoặc nhận diện được giáo viên đã phát triển và phổ biến nghiên cứu/ học tập trong ngành/ lĩnh vực chuyên môn của mình như thế nào, ví dụ qua tạp chí nghiên cứu sinh viên, hội thảo nghiên cứu của sinh viên, triển lãm, ghi âm, truyền thông đại chúng và tới những đối tượng nhất định..
- Bảo đảm rằng chương trình có tính minh bạch và được công nhận là “nghiên cứu của sinh viên” bởi các cộng đồng trong trường đại học (đặc biệt là sinh viên), các bậc phụ huynh, cộng đồng xã hội, và các nhà tài trợ và cổ đông tiềm năng từ bên ngoài (Jenkins 2008).
- CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP (soạn từ tài liệu phát tay đầy đủ) Học dựa trên nghiên cứu của các sinh viên khóa trước, Lịch sử khoa học.
- Các sinh viên theo học một khóa lịch sử khoa học (Đại học College London) đang tham gia và một dự án thử nghiệm nhằm lồng ghép trọn vẹn giảng dạy và nghiên cứu ở cấp đại học.
- Mỗi năm sinh viên nhận được một khối lượng công việc do nhóm sinh viên trước đã thực hiện, từ đó cải thiện và bổ sung cho công trình.
- Đây là một phần trong hệ thống học tập cho phép sinh viên đóng vai trò như một cộng đồng nghiên cứu thật sự và luôn phát triển.
- Bắt đầu được thực hiện cho học kỳ cuối của năm thứ ba, “khóa học sẽ được áp dụng từ năm thứ hai và sẽ tạo điều kiện cho những sinh viên quan tâm tiếp tục công trình của họ như là một phần của luận án tốt nghiệp, và sẽ thúc đẩy cộng đồng (nghiên cứu sinh viên) dưới hình thức sinh viên năm trước trình bày công trình trong khi nhóm sinh viên năm sau tham dự khóa học”.
- Nghiên cứu của sinh viên về chất lượng cuộc sống sinh viên, Tâm lý học.
- Sinh viên năm thứ nhất ngành Tâm lý học tham gia một dự án tám tuần, trong đó họ phải tự thu thập dữ liệu, có ba sinh viên khác dùng bốn danh mục ngắn và một phiếu điều tra tiểu sử để nghiên cứu những chủ đề liên quan đén chất lượng cuộc sống sinh viên (khóa học tại Đại học York St John, Anh).
- Dự án này tạo cho sinh viên cơ hội thu thập dữ liệu “sống”, góp phần phát triển cơ sở dữ liệu, lựa chọn dữ liệu phân tích, và viết thành kết quả.
- Các chủ đề cho sinh viên lựa chọn đều liên quan tới các vấn đề mà giáo viên đang nghiên cứu, do đó dự án mang lợi lợi ích chung.
- Mô hình hóa kinh nghiệm nghiên cứu: hội thảo trực tuyến về du lịch sinh viên tại Đại học Lincoln, Anh.
- Tháng Năm hàng năm, sinh viên năm cuối ngành Du lịch tại Đại học Lincoln tham gia vào một hội thảo trực tuyến.
- Đây là một phần đánh giá quá trình học cả học kỳ của sinh viên (Các quan điểm xã hội và chính trị về du lịch).
- Một hội thảo là phương tiện hữu ích để mở mang hiểu biết về quá trình và thực hành sáng tạo, phổ biến kiến thức, và là cơ hội để sinh viên tham gia với tư cách người thuyết trình về nghiên cứu.
- Một hội thảo trực tuyến đã biến điều đó thành hiện thực: trong suốt khung thời gian một tuần được xác định trước, sinh viên không cần phải tập trung tại một địa điểm mà có thể tham gia bất cứ lúc nào.
- Sinh viên phải nộp toàn bộ bản nghiên cứu cho hội nghị, nhưng trên website của hội nghị chỉ có bản tóm tắt.
- Mỗi sinh viên được yêu cầu đưa ra nhận xét về một bản nghiên cứu khác.
- Giáo viên theo dõi sự tham gia và liên lạc với sinh viên một cách thích hợp..
- Học quản lý thông tin dựa trên điều tra của năm thứ nhất tại Đại học Sheffield, Anh.
- “Điều tra quản lý thông tin” là môn học trọng tâm trong học kỳ hai năm thứ nhất, với lượng sinh viên đăng ký học khoảng 30.
- Khóa học nhằm đưa sinh viên vào một cộng đồng nghiên cứu trong bối cảnh một ngành chuyên môn được áp dụng.
- Sinh viên làm việc theo nhóm về những dự án nghiên cứu, từ đặt ra những câu hỏi nghiên cứu hợp lý, thực tế và xứng đáng (VD: nhận thức của sinh viên về tác động môi trường của điện thoại di động) cho tới trình bày các kết quả tại một “tiểu hội thảo” nghiên cứu.
- Dự án bắt đầu từ tuần thứ 4, theo sau một loạt các buổi thảo luận trù bị về tìm hiểu khái niệm “nghiên cứu” và làm thế nào để đặt ra và điều tra những câu hỏi nghiên cứu về Quản lý thông tin.
- Trong tuần cuối cùng, các vị khách tới “tiểu hội thảo” bao gồm các nghiên cứu sinh, đội ngũ giảng viên và nghiên cứu viên, và Trưởng Khoa.
- Tất cả các khách mời cùng đánh giá báo cáo nghiên cứu, theo những tiêu chí mà sinh viên năm thứ nhất của môn học đã đặt ra trước đó, cùng với các giáo viên hướng dẫn.
- Sinh viên tham gia nghiên cứu sức khỏe môi trường và hướng tới cộng đồng tại Đại học Allegheny, Pennsylvania, Mỹ Đây là ví dụ của việc kết hợp nghiên cứu ở đại học với sự tham gia của cộng đồng như là một phần chương trình học được công nhận.
- Tại Đại học Allegheny, seminar nhỏ là một khóa học bắt buộc một học kỳ, vào năm thứ ba trong bốn năm học, mở ra những cơ hội nghiên cứu và giúp sinh viên có xây dựng ý tưởng làm luận văn tốt nghiệp..
- Năm 2007 trong seminar nhỏ về Sức khỏe môi trường, Công bằng và Phát triển, sinh viên đã xây dựng và đánh giá một chương trình sức khỏe môi trường hướng tới cộng đồng.
- Sinh viên so sánh hiệu quả của hoạt động hướng tới cộng đồng được hướng trực tiếp vào học sinh lớp 5, lớp tuổi) với hoạt động hướng tới đối tượng rộng hơn qua các sự kiện cộng đồng hướng tới gia đình, như các buổi học của trẻ em và lễ diễu hành Halloween..
- Sinh viên làm việc theo nhóm tại các bàn tròn có hỗ trợ Internet và bảng trắng.
- Cũng có những phòng thí nghiệm theo hướng giả thuyết, ở đó sinh viên phải viết các báo cáo thí nghiệm chi tiết”.
- số sinh viên đang ký hiện thời là 48.
- Sinh viên không phải học môn khác và có thể dành toàn bộ thời gian cho khóa học này.
- Sinh viên được chia thành các nhóm (trình độ lẫn lộn) 5-6 người, mỗi nhóm được phân một giáo viên hướng dẫn và giáo viên này đưa ra chủ đề điều tra.
- Sinh viên được yêu cầu nghiên cứu lý thuyết, lập kế hoạch thí nghiệm, công việc thí nghiệm, phân tích và trình bày kết quả.
- Các dự án được phân công rất khác nhau nhưng nhìn chung đi từ chỗ nghiên cứu ban đầu, duy trì phạm vi rộng để có đầu vào cho sinh viên, đến chỗ định hướng công việc và làm thế nào để đạt được mục tiêu đã đặt ra một cách tốt nhất.
- Tuy nhiên quan sát thường xuyên cho thấy cách học này thực sự giúp những sinh viên yếu hơn thể hiện được mình một cách tốt nhất.
- Dường như những sinh viên này được khuyến khích bởi ý tưởng đóng góp vào nỗ lực của cả nhóm theo một cách không thể đạt được trong một lớp học truyền thống hơn..
- Nghiên cứu tự chọn, Dược.
- Tại Đại học Queen’s (Canada), chương trình học dược ở bậc đại học bao gồm tối thiểu 8 tuần bắt buộc học môn tự chọn “Điều tra phê phán” ở năm thứ hai.
- Mục đích của môn tự chọn này là cho phép mỗi sinh viên có một khoảng thời gian, hoàn toàn không phải làm bài tập, để tìm hiểu sâu một giả thuyết y học do sinh viên tự chọn.
- Lĩnh vực nghiên cứu có thể là đại cương, điều trị bệnh hoặc các ngành khoa học xã hội, hoặc nhân văn.
- Sinh viên có thể sắp xếp môn học với giáo viên hướng dẫn và tại bất cứ nơi nào họ chọn.
- Lý do chính khi đưa ra khóa học này là mối lo ngại cấp quốc gia rằng có quá ít bác sĩ chọn sự nghiệp nghiên cứu.
- Nghiên cứu về tác động của khóa học đã cho thấy sự gia tăng đáng kể số sinh viên bày tỏ ý muốn theo đuổi sự nghiệp nghiên cứu – và sinh viên (gồm những người không tìm kiếm sự nghiệp nghiên cứu) nhận ra những lợi ích khác như sự phát triển các kỹ năng tư duy phê phán, và cơ hội lựa chọn một lĩnh vực yêu thích, và mở rộng các mối quan hệ cho đào tạo sau đại học..
- Khuyến khích sinh viên tham gia nghiên cứu ứng dụng qua tư vấn phát triển thể thao cộng đồng, Khoa học thể thao.
- Tại Đại học Central Lancashire, Anh, học phần Phát triển thể thao cộng đồng ở năm cuối là môn cuối cùng đối với các sinh viên học Huấn luyện thể thao.
- Sinh viên làm việc theo nhóm qua một buổi tư vấn ngắn với một cơ quan đối tác và đề xuất các chiến lược có thể được sử dụng để hỗ trợ sự phát triển cộng đồng thông qua hoạt động thể thao cộng đồng và những sáng kiến huấn luyện.
- Thường có khoảng 8-12 buổi tư vấn như vậy, chia cho khoảng 40-50 sinh viên, trong đó sinh viên tạo ra những đội tư vấn riêng.
- Trọng tâm nhấn vào những sinh viên có thể tạo ra những quan hệ chuyên môn với các tổ chức khách hàng nhằm tiến hành nghiên cứu ban đầu do khách hàng định hướng và được cộng đồng học thuật tại trường hỗ trợ.
- Sinh viên được yêu cầu phải thường xuyên họp tổng kết với khách hàng, phỏng vấn các cổ đông tương ứng, sử dụng nghiên cứu thứ cấp để hỗ trợ phân tích kết quả, và trình bày công trinh và đề xuất của mình trước khách hàng trong một tiểu hội thảo, trong đó tất cả các nhóm đối tác đều được mời.
- Đại diện của các tổ chức đưa ra phản hồi về công việc của sinh viên, đánh giá nội dung, tính khả thi của các giải pháp, và năng lực thực hiện nghiên cứu..
- Giới thiệu đội ngũ nghiên cứu với sinh viên: Khoa Kỹ sư máy, trường Imperial College, London, Anh.
- Vào tháng Một, sinh viên năm thứ nhất khoa Kỹ sư máy được chia thành 10 – 15 nhóm, mỗi nhóm 4 – 5 sinh viên.
- Mỗi nhóm sinh viên được giao một dụng cụ kỹ thuật, ví dụ dao cạo râu, khung xe đạp… Trong vài tuần sau đó, các nhóm sinh viên có thể đến gõ cửa bất cứ nhóm nghiên cứu nào trong khoa, đặt câu hỏi quanh chủ đề “Thầy/cô/anh/chị có đang nghiên cứu vấn đề gì có thể ảnh hưởng đến hình dáng và chức năng của dụng cụ này trong 5 năm tới không?”.
- Sau đó tất cả các nhóm sinh viên phải trình bày tóm tắt những gì nhóm mình tìm được.
- Buổi báo cáo được thực hiện tại một địa điểm lớn ở trong khoa, với khoảng 700 người tham dự, gồm đội ngũ giảng dạy, hỗ trợ, các nghiên cứu sinh, sinh viên năm thứ nhất và các sinh viên quan tâm Nguồn: Trao đổi với Eric Meyer (Đại học Durham), người đã chứng kiến hoạt động này trong vai trò khách mời của khoa.
- CÁC CHIẾN LƯỢC TỪ BỘ MÔN VÀ KHOA ĐỂ NHÂN RỘNG MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ ĐIỀU TRA CỦA SINH VIÊN (theo Healey và Jenkins 2009) Tổng kết hiểu biết và hoạt động về nghiên cứu và điều tra của sinh viên.
- Làm việc với các đồng nghiệp để tổng kết quan điểm của họ về nghiên cứu và điều tra của sinh viên, từ đó lồng ghép hiểu biết ấy vào chương trình học..
- Trên cơ sở hiểu biết/ quan điểm của bạn về nghiên cứu của sinh viên, đánh giá chương trình học hiện tại để thấy các gì đã sẵn có, cái gì cần được củng cố..
- Hội đồng Boyer về Đào tạo sinh viên tại trường đại học nghiên cứu đã kêu gọi 10 thay đổi căn bản trong hệ thống giáo dục đại học, 4 trong số đó trực tiếp đòi hỏi những thay đổi về mặt tổ chức tại cấp khoa và cấp trường để đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu của sinh viên:.
- “1: Coi quá trình học dựa trên nghiên cứu là tiêu chuẩn – Học tập dựa trên khám phá được hướng dẫn.
- Điều cố hữu của phương pháp học dựa trên điều tra là một yếu tố hai chiều: giáo viên có thể học từ sinh viên và sinh viên được học từ giáo viên.
- 2: Xây dựng chương trình năm thứ nhất trên cơ sở điều tra – Năm thứ nhất ở trường đại học cần đưa ra những kích thích mới để phát triển kiến thức và nền tảng vững chắc đặt trên quá trình học dựa trên điều tra, trao đổi thông tin và các ý tưởng..
- Quá trình học dựa trên điều tra, kinh nghiệm hợp tác, các mục tiêu đối với kỹ năng viết và trình bày của sinh viên, phải đặc trưng cho khả năng giáo dục tại một trường đại học nghiên cứu.
- 7: Phát huy cao độ vào năm cuối – Học kỳ cuối cùng nên tập trung vào một dự án lớn và tận dụng mọi khả năng nghiên cứu và giao tiếp đã học được từ những năm trước”..
- Đặt nghiên cứu và điều tra của sinh viên là yếu tố ban đầu và bao trùm chương trình học Cho sinh viên được tiến hành nghiên cứu và điều tra ở các mức độ độc lập khác nhau.
- Liên hệ nghiên cứu và điều tra của sv với cơ hội việc làm trong tương lai.
- Nếu khái niệm “kinh tế tri thức” có giá trị nào đó thì giáo dục đại học cho mọi đối tượng phải bao gồm những hiểu biết nhất định về, và khả năng tiến hành hoặc sử dụng, nghiên cứu.
- Coi vấn đề này là “nghiên cứu của sinh viên” và để sinh viên hiểu rõ rằng nó sẽ giúp ích cho khả năng làm việc sau này, có thể khiến họ trân trọng hơn vai trò của nghiên cứu ở trường đại học.
- Bảo đảm hoạt động đánh giá và các chính sách hỗ trợ sinh viên làm nghiên cứu.
- Có thể sẽ bao gồm việc cân nhắc hình thức luận văn cuối năm để gắn nó chặt hơn với các quá trình nghiên cứu và các hình thức phổ biến trong ngành? Có thể những buổi triển lãm của sinh viên năm cuối ngành nghệ thuật và các bài báo của sinh viên chưa tốt nghiệp là hai chiến lược có thể áp dụng được?.
- Bao gồm các sinh viên được tuyển chọn và mọi đối tượng khác.
- Dù rõ ràng khuyến khích mọi sinh viên vào hoạt động nghiên cứu, các nhóm ở bộ môn cũng có thể dành những cơ hội đặc biệt cho một số sinh viên được lựa chọn..
- SINH VIÊN THƯỜNG LÀ THÍNH GIẢ.
- NHẤN MẠNH QUÁ TRÌNH VÀ CÁC KHÓ KHĂN TRONG NGHIÊN CỨU.
- NHẤN MẠNH NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.
- SINH VIÊN LÀ NGƯỜI THAM GIA.
- Được định hướng theo nghiên cứu.
- Được thực hiện theo nghiên cứu.
- Học các nghiên cứu hiện thời trong ngành.
- Trên cơ sở nghiên cứu.
- Tiến hành nghiên cứu và điều tra.
- Hướng dẫn nghiên cứu.
- Tham gia vào các buổi thảo luận về nghiên cứu