« Home « Kết quả tìm kiếm

Tản mạn về hậu hiện đại và đại tự sự trong văn học Việt Nam


Tóm tắt Xem thử

- Tản mạn về hậu hiện đại và đại tự sự trong văn học Việt Nam Tản mạn về hậu hiện đại và đại tự sự trong văn học Việt Nam.
- Hậu hiện đại và đại tự sự.
- Những năm gần đây, giới nghiên cứu và sáng tác nghệ thuật Việt Nam bị ám ảnh rất nhiều bởi cái gọi là Chủ nghĩa Hậu hiện đại (Postmodernism).
- Về phương diện lí thuyết, chủ nghĩa hậu hiện đại đến từ phương Tây với các đại diện tiêu biểu là J.
- Có thể hiểu Hậu hiện đại ra đời vào thập kỉ 60 của thế kỉ 20 như là một sự phản ứng lại với chủ nghĩa hiện đại (cái hiện đại), phản ứng lại những mô thức định sẵn.
- Cho nên theo nhiều nhà nghiên cứu[i], Hậu hiện đại là một khái niệm phi thời, nghĩa là trong bất kì xã hội nào, thời kì nào có sự khủng hoảng tinh thần cũng có thể tồn tại tinh thần hậu hiện đại, có chăng ở những giai đoạn gần đây, tinh thần ấy nổi trội, đậm đặc và ở nhiều nơi trở thành chủ đạo mà thôi.
- Hậu hiện đại mang tinh thần thời đại chứ không chỉ thuần là văn nghệ như một số trào lưu khác (như tượng trưng, siêu thực chẳng hạn).
- Là một trạng thái tâm thức (state of mind), nên rất khó để định nghĩa Hậu hiện đại là gì, bởi nó chống lại những khái niệm tuyệt đối, chống lại những nguyên lí bất di bất dịch.
- và chống lại (hay phá dỡ, phá bỏ) đại tự sự.
- Thực ra, nếu hiểu "chủ nghĩa" theo cách cổ điển, nghĩa là mang tính triết học và gắn với một trường phái triết học nào đó, thì gọi là "chủ nghĩa hậu hiện đại" còn nhiều bất ổn, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam.
- có lẽ vì thế, cũng nhiều người thay thế bằng các cụm từ khác, như "tâm thức hậu hiện đại", "hoàn cảnh hậu hiện đại", "điều kiện hậu hiện đại", "văn hóa hậu hiện đại.
- và chúng ta nên hiểu, chủ nghĩa hậu hiện đại là khái quát về một cách thức nhìn nhận thế giới..
- Khác với các chủ nghĩa trước đây, hậu hiện đại là trào lưu hầu như không tìm được sự đồng thuận trong quan niệm của các triết gia.
- Người thì cho rằng nó tồn tại trong tất cả các thời kì xã hội - những thời kì có sự khủng hoảng tinh thần.
- người thì cho nó là đỉnh cao của chủ nghĩa hiện đại.
- xuất hiện sau khi chủ nghĩa hiện đại kết thúc[ii].
- Phải chăng đây cũng là một khái niệm rất hậu hiện đại, bởi tính chất giải trung tâm, hoài nghi lí tính, khó nắm bắt bằng những kết luận chắc chắn[iii].
- Tuy nhiên, dù có sự khác nhau trong cách nhìn nhận về "thời", không ai không thừa nhận sự xuất hiện và tồn tại thực sự của Hậu hiện đại trong xã hội ngày nay..
- Đại tự sự (grand narratives/ grands récits) hay tự sự chủ (master narratives), siêu tự sự (metanarrative) là một khái niệm của chủ nghĩa Hậu hiện đại (Postmodernism), được Lyotard đưa ra trong cuốn "Hoàn cảnh Hậu hiện đại (La Condition Postmoderne).
- không riêng gì văn học nghệ thuật.
- Và cũng như Hậu hiện đại, rất khó xác định rõ đại tự sự là một cái gì đó - một cái gì đó cụ thể, bởi, có lẽ, ý nghĩa ngầm chứa của nó là khá trừu tượng, nhằm gọi tên một trạng thái, một tính chất, một tinh thần đã được xây dựng nên và tin tưởng.
- Nếu nhìn nhận bằng cách đơn giản hóa nhất, thì theo tôi, có hai phương diện: thứ nhất, Đại tự sự là những cái phổ quát, cái chung mà nhân loại cùng trải nghiệm trong lịch sử.
- thứ hai, là những cái mà người ta quan niệm, hi vọng và có thể biến nó trở thành phổ quát (hợp thức hóa).
- Thời đương đại được xem là thời cáo chung của các đại tự sự và theo một số nhà nghiên cứu thì Hậu hiện đại nghi ngờ và mang theo cái chết của Đại tự sự.
- Tính đến thời điểm này, có thể nói, tinh thần đại tự sự đã là truyền thống và luôn quan trọng trong văn học Việt Nam.
- Trong một trạng thái lịch sử mới, tinh thần này lay chuyển thế nào, có thể đặt lại câu hỏi hay đưa ra một phản đề hay không.
- Bài viết này của chúng tôi muốn nhấn mạnh đến vai trò của tinh thần ấy trong văn hóa Việt Nam nói chung và văn học nói riêng..
- Đại tự sự trong tâm thức cộng đồng.
- Bản nguyên một dân tộc nào cũng phải tìm đến một đại tự sự để hình thành và dựa dẫm vào để duy trì.
- nó hình thành nên các cổ mẫu -những mẫu gốc - những định thức kiến tạo bất biến (Lại Nguyên Ân - Từ điển thuật ngữ văn học).
- Chắc chắc rằng ở một dân tộc có bản sắc văn hóa, dù hiện đại hay hậu hiện đại, những mẫu gốc, những sợi dây ràng buộc con người ta với các yếu tố tâm linh, với những cách suy tư quen thuộc vẫn không hề mất đi.
- Một trong những tầng nghĩa của chủ nghĩa hậu hiện đại là chấp nhận và tôn trọng tính đa văn hóa, chấp nhận những ngoại vi.
- Đại tự sự trong phạm vi một bản sắc văn hóa vì thế là cái quan trọng, nó giống như là nền tảng mà từ đó một nền văn hóa được xây dựng nên..
- Hơn nữa, đại tự sự có vai trò to lớn trong cách tư duy của con người, trong cách con người cảm nhận thế giới và xã hội.
- Sự tồn tại của nó có thể chỉ ở dạng tiềm tại nhưng không ai có thể phủ nhận.
- Những huyền thoại có thể là không có thực nhưng các dân tộc đều cố gắng xây dựng và duy trì.
- Bút pháp huyền thoại đến nay vẫn rất thịnh hành trong văn học, đặc biệt ở những trào lưu mới như văn học phi lí, văn học huyền ảo.
- bởi con người ngày càng cảm thấy bất định, sống trong một thế giới mà mọi thứ có thể xẩy ra (từ chiến tranh, loạn lạc, xấu tốt lẫn lộn, thức ăn không đảm bảo, tai nạn giao thông, bệnh tật, li dị, trộm cắp.
- thì người ta buộc phải tìm đến các niềm tin, cũng là tìm đến để lấy lại trạng thái cân bằng - là một cách tự vệ của con người muôn đời.
- Phải nói rằng rất khó để chứng minh được vai trò của đại tự sự trong tâm thức cộng đồng, rất khó để chỉ ra những cái cụ thể, bởi nó luôn ở trạng thái trừu tượng, khó nắm bắt.
- Ngày xưa, Nguyễn Du suy nghĩ về con người qua thế giới cây cỏ của một nền văn hóa nông nghiệp lúa nước.
- Mỗi quốc gia, mỗi con người đều không thể tồn tại lâu dài với trạng thái bất ổn.
- Để có được điều đó lại cần đến những đại tự sự, những niềm tin để bấu víu.
- Chỉ có điều, đừng nhìn đại tự sự như một cái gì đó có tính cố định vĩnh cửu (nếu nhìn như vậy chúng ta sẽ thấy sự bất cập, điểm hạn chế của nó).
- Đại tự sự có thể được thay thế, được làm mới, bị mờ hóa bởi một đại tự sự khác.
- Nhưng rất khó phá dỡ hoàn toàn một đại tự sự, dù thế nào nó vẫn bảo tồn lại những mảnh ghép, những phiên bản, bởi có ba lí do: thứ nhất, nó gắn với lịch sử hình thành và phát triển của một dân tộc, một cộng đồng lãnh thổ.
- Cho nên, hậu hiện đại có thể hoài nghi đại tự sự, nhưng không thể phá bỏ hay xóa hết hoàn toàn ảnh hưởng của các đại tự sự như một số người đã nói..
- Hiện nay, ở Việt Nam, dưới ảnh hưởng của toàn cầu hóa, theo chúng tôi cũng đang có tinh thần hậu hiện đại.
- Văn học bắt rễ từ đời sống nên đương nhiên trạng thái xã hội ảnh hưởng mạnh mẽ đến nó.
- Sự xuất hiện của nhiều phương tiện truyền thông đã làm cho văn học không cần thiết là cuốn "bách khoa toàn thư" về cuộc sống nữa, nó cần phải khu biệt vào phạm vi mà chỉ riêng nó có, riêng nó có thể làm được, đó chính là trạng thái chông chênh của con người, là những bất ổn mà các lĩnh vực khác không thể thể hiện được.
- Trước năm 1986, có thể nói, văn học đã hoàn tất vai trò lịch sử của mình (hoàn tất đến đâu lại là vấn đề khác), còn đến thời đại ngày nay, vai trò ấy được đặt ra và được thực hiện như thế nào, điều này phụ thuộc vào hai vấn đề: thứ nhất là vị trí của văn học so với các lĩnh vực khác trong đời sống văn hóa.
- thứ hai là sự thay đổi trong nội dung và cách viết tác phẩm, có thể phù hợp với nhu cầu của độc giả hay không.
- Đối với xã hội nào thì việc xây dựng niềm tin vẫn là điều cần thiết, bởi chính nó có chức năng giải quyết được những bất ổn của cá nhân con người và xã hội.
- của con người thời đại phải chăng xuất phát từ sự khủng hoảng niềm tin và sự cô đơn.
- Đại tự sự của thời hiện đại (hay quá khứ) có thể lu mờ, nhưng hậu hiện đại - dù rằng muốn phá bỏ các đại tự sự, rất có thể vẫn xây dựng nên các đại tự sự khác, bằng một cách khác nào đó.
- Bất cứ diễn ngôn nào cũng nhuốm màu thời đại, vì thế trên thực tế chúng ta đang thấy những văn bản với cách viết rất mới, với ngôn từ và nội dung không còn "cao sang" nữa mà có phần suồng sã, có phải đó là những tiểu tự sự đang được cổ súy.
- Trở lại với cái chết của Đại tự sự, xin nói thêm rằng, mỗi thể loại, cũng như các trào lưu, chủ âm khác, đều có vai trò lịch sử của mình.
- Như nhà nghiên cứu Nguyễn Hưng Quốc - người nỗ lực giới thiệu lí thuyết Hậu hiện đại vào Việt Nam - đã nói về cái chết của Đại tự sự: "Chết - không có nghĩa là tận tuyệt mà chỉ có nghĩa là: hoặc không còn là yếu tố chủ đạo, hoặc không còn tồn tại như nó vẫn thường được hiểu và tin: chết với tư cách một cao trào, một chủ âm, một ý niệm"[vi].
- Tinh thần của văn học, đến thời đại này buộc phải có những thay đổi, thậm chí là bước ngoặt.
- Các thử nghiệm văn học không ngừng được đưa ra.
- Nó có sức sống lâu bền hay không, có giá trị hay không không thể phán quyết trong ngày một ngày hai nhưng với sự xuất hiện ngày càng nhiều các tác phẩm viết theo kiểu mới (từ Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương, Thuận, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Linh Khiếu) dễ dàng thấy văn học đang chứng minh được sức sống của mình và đang thực hiện vai trò của mình: hồi đáp những tiếng vọng từ tâm thức xã hội và tâm thức con người..
- Mỗi lĩnh vực trong cuộc sống có một đại tự sự riêng.
- Vì thế các cách diễn đạt khác nhau về đại tự sự thực ra là những áp dụng riêng biệt của các nhà nghiên cứu vào từng lĩnh vực.
- Xét riêng trong văn học, theo chúng tôi, đại tự sự thường là: Những tác phẩm với dung lượng lớn, có tầm khái quát lớn lao, mong muốn thâu tóm toàn bộ lịch sử vào trong một câu truyện, ví dụ như: Chiến tranh và hòa bình (L.
- Đại tự sự và tiểu tự sự là hai mặt của cuộc sống, không phải có quan hệ to nhỏ, tổng thể - bộ phận kiểu tiểu thì ở trong đại, mà đó là khái quát từ hai cách nhìn nhận, đại tự sự thì hướng đến cái chung, cái trung tâm, cái cơ bản.
- tiểu tự sự thì hướng đến cái khác, hướng đến giải trung tâm.
- Văn học trước 1986 ở nước ta chủ yếu hướng đến tinh thần đại tự sự, đặc biệt là tự sự mang tinh thần lịch sử và tinh thần dân tộc.
- Những cái chung thuộc về con người đôi khi bị bỏ qua, chứ chưa tính đến các tiểu tự sự.
- Sau 1986, trong văn học, những câu chuyện thuộc về cá nhân lên ngôi là đúng, là hợp lí, nhưng như thế không đồng nghĩa với việc đại tự sự mất vai trò của nó, kể cả trong các thể nghiệm hậu hiện đại..
- Tâm thức mà Nguyễn Quang Thiều thể hiện trong tác phẩm có nhiều phần tái hiện tâm thức hiện đại, khi con người tồn tại quên mình trong thế giới của chát và game online - với rất nhiều những trải nghiệm giả tưởng, những trải nghiệm mà không phải là trải nghiệm.
- Đối diện với điều đó sao có thể không mơ hồ về giá trị tồn tại của mình? Các tác phẩm mới ra đời của anh như "Nhân chứng của cái chết", "Lò mổ" đều thể hiện suy tư ấy.
- Và có thể nói, những vấn đề mà con người luôn phải đối mặt trong nhận thức tồn tại của mình chính là một đại tự sự mới của hậu hiện đại, vì đó chính là trải nghiệm chung mà nhân loại đang trải qua.
- Văn học thế giới và Việt Nam đang cùng gặp gỡ nhau ở đó.
- Khi ta đọc tác phẩm của Duras (như Người tình), của H.
- đều có thể cảm nhận được trạng thái mơ hồ và cô đơn mà con người đương đại đang phải đối diện..
- Xét về phương diện thẩm mĩ, có thể nói, nhiều tác phẩm mới kiểu hậu hiện đại không hề dễ đọc (như thơ của Đỗ Kh, Phan Bá Thọ, Bùi Chát, Lý Đợi, Nguyễn Hoàng Nam.
- Trước đây, trong văn học nghệ thuật, những cái cao xa, có khoảng cách với đời sống thường nhật thì mới được xem là đẹp, là nghệ thuật đích thực.
- Người ta chủ trương đưa những cái bình thường (tầm thường) thậm chí (nếu trước đây) dung tục vào tác phẩm.
- Các trào lưu nghệ thuật đương đại được khởi đầu bằng các tác phẩm hội họa.
- Tác phẩm "Fountain" (1917) của Marcel Duchamp là trường hợp "khét tiếng" nhất trong lịch sử mỹ thuật.
- Vào lúc ấy và cả bây giờ, ít ai có thể khẳng định chắc chắc về giá trị nghệ thuật của nó.
- Chỉ có thể nói rằng, hành động của Duchamp là một sự khiêu khích, một sự chối từ với những cách tư duy nghệ thuật hiện hữu.
- Giá trị của tác phẩm toát lên từ sự khiêu khích ấy.
- Điều đó cũng đưa tên tuổi Duchamp vào lịch sử nghệ thuật và khiến cho những tác phẩm sau này của ông được công nhận và đón nhận.
- Ở nhiều thời điểm quan trọng, những bước ngoặt, giá trị của tác phẩm đôi khi là ở hành động, ở cách thức công bố, tuyên chiến chứ không phải ở bản thân nó.
- Tác phẩm Tình già của Phan Khôi - mở đầu cho phong trào Thơ Mới, tuyên bố kết thúc vai trò của Thơ cũ phần nào có thể là một ví dụ.
- Tại sao nó lại có thể trở thành nghệ thuật? Trong cuốn sách "Thế mà là nghệ thuật ư?"[vii] Cyuthia Freeland đã đưa ra nhiều trường hợp và nhiều cách nhìn, cách lí giải phong phú.
- Về trường hợp này, bà viết "Warhol đã chứng minh rằng tất cả đều có thể trở thành nghệ phẩm, nếu được tạo cho một hoàn cảnh và lí thuyết thích hợp"[viii], và bà dẫn lời triết gia Arthur Danto "Không gì có thể trở thành một nghệ phẩm nếu thiếu đi một diễn giải giúp nó trở thành như thế"[ix].
- Nếu như vậy, trên tinh thần cầu thị và mong muốn đổi mới, những tác phẩm còn chưa thể đọc của chúng ta cũng đang chờ đợi "một diễn giải", "một lí thuyết" để nó có thể trở thành nghệ thuật.
- Tiếp nhận chủ nghĩa hậu hiện đại là điều cần thiết không chỉ đối với giới nghiên cứu và sáng tác nghệ thuật.
- Tính hệ thống của hậu hiện đại dù có thể lỏng lẻo hơn một số lí thuyết khác, nhưng nó là lí thuyết về thời đương đại, và nó mang tính toàn cầu, dù có ý thức hay không, mỗi chúng ta đều chịu ảnh hưởng bởi tinh thần hay trạng thái hậu hiện đại.
- Hơn nữa, tính chất hậu hiện đại tồn tại trong mọi phương diện của cuộc sống, nó đang tác động mạnh mẽ đến cách sống, cách suy tư của chúng ta, không có lí gì lại không tìm đến một qui phạm hóa để hiểu hơn về xã hội và về chính mình.
- Tuy vậy, đặc biệt là người sáng tác, có lẽ, cũng không nên tuyệt đối hóa một phương diện nào đó, đừng bị ám ảnh quá nhiều bởi các tuyên bố về những cái chết (cái chết của điển phạm, cáí chết của đại tự sự, cái chết của tác giả.
- Giảng viên Khoa Văn học.
- [ii] Xem Văn học hậu hiện đại thế giới - những vấn đề lí thuyết (Đặc biệt, bài viết "Chủ nghĩa hậu hiện đại hay là hiện tượng chồng chéo khái niệm.
- [iii] Ở đây chúng tôi ví dụ một "định nghĩa" khá dễ hiểu để người đọc tiện theo dõi: chủ nghĩa hậu hiện đại có nhiều cấp độ: rộng, nó chỉ những điều kiện văn hoá, triết lý sống và phong cách sống của cả một thời đại.
- hẹp, nó chỉ một trào lưu sáng tác với quan điểm mỹ học và kỹ thuật cũng như thủ pháp riêng, khác với những tác phẩm ra đời trong quỹ đạo hiện đại chủ nghĩa trước đó (Nguyễn Hưng Quốc - Chủ nghĩa hậu hiện đại và những cái (cần) chết trong văn học.
- [v] Richard Appignanesi - Chris Gattat, Nhập môn chủ nghĩa hậu hiện đại, Trần Tiễn Cao Đăng dịch, NXB Trẻ, 2006, tr 103..
- [vi] Nguyễn Hưng Quốc, Chủ nghĩa hậu hiện đại và những cái (cần) chết trong văn học Việt Nam, http://www.tienve.org.
- Các tác phẩm "Fountain", "Những hộp xà phòng Brillo", "Đái vào chúa" đều được đề cập trong cuốn sách này.