« Home « Kết quả tìm kiếm

Ứng dụng biofloc nuôi tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) với mật độ khác nhau kết hợp với cá rô phi (Oreochromis niloticus)


Tóm tắt Xem thử

- Tôm thẻ chân trắng, mật độ, cá rô phi, biofloc.
- Nghiên cứu nhằm xác định mật độ tôm thẻ chân trắng thích hợp trong mô hình nuôi ghép với cá rô phi kết hợp với biofloc.
- Thí nghiệm được bố trí ngẫu nhiên với 4 nghiệm thức mật độ tôm thẻ gồm: (i) 150 con/m 3 .
- cá rô phi được nuôi ghép ở tất cả các nghiệm thức với mật độ 4 con/m 3 và kết hợp với biofloc (C:N = 15:1).
- mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần.
- Sau 60 ngày nuôi, các yếu tố môi trường nước nằm trong khoảng thích hợp cho sự phát triển của tôm thẻ chân trắng và cá rô phi.
- Tôm nuôi ở mật độ 150 và 200 con/m 3 đạt khối lượng trung bình lần lượt là 6,76.
- 5,97 g/con và có tốc độ tăng trưởng về khối lượng nhanh, tỷ lệ sống cao, FCR thấp hơn và khác biệt có ý nghĩa so với các nghiệm thức ở mật độ 250 và 300 con/m 3 .
- Tuy nhiên, năng suất thu được ở các mật độ nuôi khác nhau khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05)..
- Kết quả nghiên cứu cho thấy, việc nuôi tôm ghép với cá rô phi sẽ đạt kết quả tốt hơn ao nuôi tôm đơn như tôm đạt kích cỡ lớn, tỷ lệ sống, năng suất tôm cao.
- bên cạnh đó còn thu được cá rô phi với năng suất 923kg/ha/vụ (Tiền Hải Lý, 2006).
- Từ những thông tin trên, nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu, xác định mật độ tôm thẻ nuôi thích hợp trong mô hình tôm có ứng dụng công nghệ biofloc và ghép với cá rô phi..
- Thí nghiệm được bố ngẫu nhiên với 4 nghiệm thức mật độ tôm thẻ khác nhau: 150.
- cá rô phi được nuôi ghép ở tất cả nghiệm thức với mật độ 4 con/m 3 bể nuôi và kết hợp với ứng dụng qui trình biofloc (bón bột gạo để cân bằng hàm lượng C:N = 15:1).
- Tôm thẻ chân trắng có kích cỡ ban đầu là 0,82 cm (0,006 g/con).
- cá rô phi có chiều dài từ cm và khối lượng g/con.
- Y = W -0,5558 ) và cá rô phi được cho ăn 5% khối lượng thân/ngày (thức ăn cá hiệu Grobest 35% đạm).
- Định kỳ bón bột gạo 4 ngày/lần, lượng bột gạo bón vào bể nuôi được tính theo lượng thức ăn cho tôm và cá rô phi ăn, lượng bột gạo dao động từ tổng lượng thức ăn để đạt được tỷ lệ C:N = 15:1 (Avnimelech, 1999).
- Tăng trưởng của tôm và cá được xác định 30 ngày/lần.
- Tỷ lệ sống của tôm thẻ và cá được xác định sau 60 ngày nuôi.
- Các số liệu thu thập được tính toán các giá trị trung bình, độ lệch chuẩn bằng phần mềm Excel, so sánh sự khác biệt giữa các nghiệm thức theo.
- Bảng 1 cho thấy nhiệt độ nước buổi sáng và chiều giữa các nghiệm thức thí nghiệm dao động từ o C.
- Tuy nhiên, sự biến động pH trong cùng một nghiệm thức sai khác nhau không có ý nghĩa (p<0,05).
- Nghiệm thức Nhiệt độ ( o C) pH.
- Các yếu môi trường nước trong quá trình ở Bảng 2 cho thấy, hàm lượng nitrite trung bình ở các nghiệm thức dao động từ mg/L, TAN biến động từ mg/L và độ kiềm mg CaCO 3 /L.
- Sự biến động của các yếu tố môi trường nước giữa các nghiệm thức khác biệt thống kê.
- Nghiệm thức.
- (mg/L) Độ kiềm (mg CaCO 3 /L Biến động mật độ vi khuẩn trong môi trường nước.
- Bảng 3 cho thấy, trung bình mật độ vi khuẩn tổng ở các nghiệm thức mật độ tôm khác nhau, sau 30 ngày nuôi dao động từ x10 4 CFU/mL và 60 ngày nuôi dao động x10 4 CFU/mL, sai khác không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
- Đối với mật độ vi khuẩn vibrio sau 30 ngày nuôi sai khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức, ở mật độ nuôi 300 con/m 3.
- thì mật độ vibrio đạt cao nhất (4,2415 x 10 4 CFU/mL) và thấp nhất ở nghiệm thức mật độ 200 con/m 3 (39,95 x10 4 CFU/mL).
- Tuy nhiên, đến giai đoạn 60 ngày nuôi thì mật độ vibrio ở nghiệm thức mật độ tôm 150, 200 và 250 con/m 3 đều tăng đáng kể, mật độ vibrio lần lượt là 4,53.
- 2,34 x 10 4 CFU/mL, nhưng ở nghiệm thức mật độ ương.
- Theo Anderson (1993) trong ao nuôi tôm nếu mật độ tổng vi khuẩn vượt 10 7 CFU/mL sẽ có hại cho tôm cá nuôi và môi trường nuôi trở nên ô nhiễm.
- Trung bình mật độ tổng vi của tất cả các nghiệm thức đều nằm trong giới hạn cho phép..
- Nghiệm thức Sau 30 ngày nuôi Sau 60 ngày nuôi.
- Hình 1 và Hình 2, cho thấy kích thước hạt biofloc có xu hướng tăng dần về cuối vụ ở tất cả các mật độ tôm.
- nuôi, ở mật độ tôm nuôi có kích cỡ hạt biofloc lớn nhất 0,77x0,55 mm.
- Nhìn chung, kích thước hạt và thể tích biofloc tất cả mật độ tôm khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
- Sự hình thành hạt biofloc phụ thuộc vào mật độ tôm nuôi, thành phần loài sinh vật cũng như tình trạng sục khí trong các bể thí nghiệm, ngoài ra sự hình thành của biofloc còn chịu ảnh hưởng của cá rô phi do cá rô phi sử dụng biofloc làm thức ăn..
- biofloc vẫn rất thấp, lượng biofloc ở các nghiệm thức dao động từ 0,1 - 0,3 mL/L.
- Đến 21 ngày nuôi thì lượng biofloc tăng lên, dao động từ 0,5 - 0,6 mL/L nhưng hàm lượng này ở các nghiệm thức vẫn khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
- Hình 3: Sự biến động thể tích hạt bioloc theo thời gian thí nghiệm 3.2 Tốc độ tăng trưởng của tôm thẻ chân.
- trắng và cá rô phi.
- 3.2.1 Tăng trưởng về chiều dài.
- Chiều dài của tôm trong thời gian nuôi ở các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05), sau 30 ngày nuôi dao động từ cm và sau 60 ngày dao động từ cm.
- Tương tự, tốc độ tăng trưởng về chiều dài của tôm sau 30 và 60 ngày nuôi ở các nghiệm thức khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p>0,05), tốc độ tăng trưởng của tôm sau 30 ngày dao động từ 0,08-0,11 cm/ngày ngày) và sau 60 ngày dao động từ 0,11-0,12 cm/ngày ngày)..
- Hình 4: Chiều dài của tôm và cá sau 60 ngày nuôi Đối với cá rô phi, chiều dài sau 30 ngày nuôi ở.
- các nghiệm thức dao động từ cm, sai khác nhau không ý nghĩa thống kê (p>0,05).
- Tuy nhiên đến 60 ngày ương, chiều dài của cá ở nghiệm thức mật độ 150 con/m 3 ngắn nhất (11,34 cm), khác biệt có ý nghĩa so với nghiệm thức mật độ.
- Tốc độ tăng trưởng của cá rô phi ở các nghiệm thức cũng khác biệt giống như chiều dài của cá, tốc độ tăng trưởng của cá sau 60 ngày nuôi cũng đạt thấp nhất ở nghiệm thức 150 con/m 3 (0,09 cm/ngày.
- Bảng 4: Tốc độ tăng trưởng về chiều dài của tôm và cá sau 60 ngày nuôi.
- Con/m 3 DLG (cm/ngày) SGR (%/ngày) DLG (cm/ngày) SGR (%/ngày) Tôm thẻ chân trắng.
- Cá rô phi.
- Tôm thẻ chân trắng: khối lượng của tôm ở các nghiệm thức mật độ tôm khác nhau, sau 60 ngày nuôi dao động từ g/con, giữa các nghiệm thức sai khác nhau có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
- Trong đó, ở nghiệm thức mật độ 200 con/m 3 tôm đạt khối lượng cao nhất (6,76 g/con) nhưng không khác biệt có ý nghĩa so với mật độ nuôi 150 con/m 3 (5,97 g/con).
- Tốc độ tăng trưởng của tôm nuôi sau 30 ngày nuôi ở các nghiệm thức dao động từ g/ngày ngày), sai khác nhau không ý.
- nghĩa thống kê (p>0,05).
- Tuy nhiên, đến 60 ngày thì tốc độ tăng trưởng của tôm nuôi giữa các nghiệm thức khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
- Ở nghiệm thức mật độ 200 con/m 3 cho kết quả tăng trưởng tốt nhất (0,11 g/ngày và 11,7.
- Kết quả nghiên cứu này thể hiện, khi nuôi tôm với mật độ lớn hơn 200 con/m 3 thì tốc độ tăng trưởng thấp hơn nuôi ở mật độ thấp hơn.
- Tốc độ tăng trưởng của tôm trong nghiên cứu này cao hơn so với các nghiên cứu gần đây, nuôi tôm thẻ chân trắng trong bể theo qui trình biofloc với mật độ 300 con/m 3 và độ mặn 15 o / oo , sau 2 tháng nuôi tôm đạt 4,68 g/con (Tạ Văn Phương và ctv., 2014a)..
- Cá rô phi: sau 60 ngày nuôi thì khối lượng cá rô phi ở các nghiệm dao động từ g/con, giữa các nghiệm thức khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
- Cá rô phi có khối lượng thấp nhất là ở nghiệm thức mật độ tôm nuôi 150 con/m 3 (55,57 g/con) và cao nhất là ở nghiệm thức mật độ tôm nuôi 300 con/m 3 (82,25 g/con).
- Cá tăng trưởng trong nghiên cứu này theo xu hướng, khi mật độ tôm nuôi càng cao thì cá tăng trưởng càng nhanh..
- Điều này hoàn toàn phù hợp, vì cá rô phi có thể ăn được các hạt biofloc hay vật chất lơ lửng, nên khi nuôi mật độ tôm càng cao thì lượng thức ăn cho vào trong bể càng lớn, phân thải ra và các vật chất.
- Tương tự, tốc độ tăng trưởng về khối lượng của cá rô phi sau 30 hay 60 ngày nuôi ở mật độ tôm nuôi 150 con/m 3 thấp nhất so với các nghiệm thức còn lại và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
- Cụ thể, sau 30 ngày nuôi cá ở nghiệm thức mật độ 150 con/m 3 là 0,68 g/ngày (4,89 %/ngày), ở các mật độ nuôi 200.
- Sau 60 ngày nuôi, tốc độ tăng trưởng của cá nuôi ở nghiệm thức mật độ tôm nuôi 150 con/m 3 cũng đạt thấp nhất (0,82 g/ngày và 3,68 %/ngày) và khác biệt so với cá ở các nghiệm thức còn lại..
- Con/m 3 DWG (g/ngày) SGR (%/ngày) DWG (g/ngày) SGR (%/ngày) Tôm thẻ chân trắng.
- tôm thẻ chân trắng và cá rô phi.
- 3.3.1 Tỷ lệ sống của tôm thẻ và cá rô phi Tỷ lệ sống của tôm sau 60 ngày nuôi ở các nghiệm thức mật độ tôm nuôi khác nhau dao động từ giữa các nghiệm thức sai khác có.
- Tỷ lệ sống cao nhất ở mật độ tôm nuôi 150 con/m 3 (41,0.
- kế đến ở mật độ 200 con/m 3 (30,4.
- tỷ lệ sống của 2 nghiệm thức này có sự chênh lệch nhưng khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
- Tỷ lệ sống của tôm trong thí nghiệm này tương đối thấp hơn các nghiên cứu trước, nuôi tôm thẻ trong bể với qui.
- Nguyên nhân tỷ lệ sống của tôm trong nghiên cứu này thấp, do thả tôm nhỏ (0,006 g/con), trong giai đoạn đầu có thể bị cá rô phi ăn nên dẫn đến tỷ lệ sống thấp..
- Đối với cá rô phi được nuôi kết hợp trong nghiên cứu này đạt tỷ lệ sống 100% ở tất cả các nghiệm thức..
- Mật độ tôm thẻ (con/m 2.
- Tôm thẻ.
- Hình 6: Tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng và cá rô phi sau 60 ngày nuôi 3.3.2 Năng suất, hệ số thức ăn của tôm thẻ.
- chân trắng và cá rô phi.
- Năng suất tôm nuôi ở các mật độ khác nhau dao động từ g/m 3 , chúng không khác biệt có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
- thức mật độ tôm 150 con/m 3.
- Bên cạnh năng suất tôm thu được, thí nghiệm này còn thu được sản phẩm là cá rô phi với năng suất dao động từ g/m 3 , năng suất cá thu được ở các nghiệm thức khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
- Ở nghiệm thức mật độ tôm 150 con/m 3 cho năng suất cá thấp nhất (222,33 g/m 3 ) và khác biệt có ý nghĩa so với 3 nhóm mật độ tôm còn lại..
- Mặc dù tỷ lệ sống của cá ở các nghiệm thức đều 100% nhưng cá nuôi ở mật độ tôm nuôi 150 con/m 3 có tốc độ tăng trưởng thấp..
- Bảng 6: Năng suất, hệ số thức ăn (FCR) của tôm thẻ và cá rô phi.
- Nghiệm thức Tôm thẻ chân trắng Cá rô phi.
- Các giá trị trong cù n g một cột có ký tự giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) Hệ số thức ăn của tôm thẻ ở các nghiệm thức.
- Trong đó, hệ số thức ăn thấp nhất ở nghiệm thức mật độ tôm nuôi 150 con/m 3 (1,72) nhưng không khác biệt có ý nghĩa so với mật độ tôm nuôi 200 con/m 3 (2,0), tuy nhiên sai khác có ý nghĩa so với mật độ tôm nuôi 30 con/m 3 (3,18).
- số thức ăn của cá rô phi ở các nghiệm thức rất thấp, dao động từ .
- ở nghiệm thức có mật độ tôm nuôi thấp thì hệ số thức ăn của cá cao hơn (150 con/m 3 , FCR = 0,16) và khác biệt có ý nghĩa so với các nghiệm thức mật độ tôm nuôi cao hơn..
- Điều này, chứng tỏ rằng cá rô phi có sử dụng thức ăn từ nguồn chất thải của tôm hay các hạt biofloc..
- Tôm thẻ nuôi ở mật độ 150 và 200 con/m 3 cho kết quả tốt, khối lượng trung bình lần lượt là 6,76.
- 5,97 g/con và có tốc độ tăng trưởng về khối lượng nhanh, tỷ lệ sống cao, FCR thấp hơn và khác biệt có ý nghĩa so với các nghiệm thức ở mật độ 250 và 300 con/m 3.
- Trong quá trình thực hiện thí nghiệm do hệ thống sục khí yếu gây hạn chế sự hình thành biofloc và do kích thước mắt lưới lồng rô phi lớn nên tôm thường xuyên vào trong lồng, cá rô phi ăn nên tỷ lệ sống của tôm thấp.
- Nghiên cứu nuôi tôm thẻ chân trắng theo quy trình biofloc với mật độ và độ mặn khác nhau.
- Thực nghiệm nuôi kết hợp cá Rô phi đỏ đơn tính trong ao nuôi tôm sú thâm canh ở Bạc Liêu.
- Ảnh hưởng của sinh khối cá Rô phi và tỉ lệ cho ăn lên sự tăng trưởng quần thể tảo Chlorella trong điều kiện bể nuôi