« Home « Kết quả tìm kiếm

Cơ sở để xác định các chủ đề nội dung môn học trong chương trình giáo dục phổ thông định hướng phát triển năng lực học sinh


Tóm tắt Xem thử

- Bài viết này trình bày các phương pháp xác định nội dung của các môn học trong chương trình (CT) giáo dục phổ thông (GDPT) một cách tổng quát và có hệ thống, cũng như sự phát triển của các môn học chính trong lĩnh vực Khoa học Tự nhiên..
- Dựa trên việc phân tích bản chất của dạy học tích hợp cũng như xác định logic tích hợp giữa các thành phần riêng lẻ của lĩnh vực Khoa học Tự nhiên (KHTN) bằng các chủ đề hội tụ, chúng tôi đưa ra đề xuất thiết kế nội dung môn học trong CT GDPT mới bằng phương pháp vận dụng logic Tổng - Phân - Hợp.
- Các chủ đề cốt lõi của lĩnh vực khoa học tự nhiên được xác định có thể là 1.
- Từ khóa: Nội dung dạy học.
- Chương trình giáo dục phổ thông mới được ban hành đã định hướng các nội dung giáo dục, theo đó, CT GDPT gồm có 11 nội dung giáo dục: giáo dục ngôn ngữ và văn học, giáo dục toán học, giáo dục khoa học xã hội, giáo dục khoa học tự nhiên, giáo dục công nghệ, giáo dục tin học, giáo dục công dân, giáo dục quốc phòng và an ninh, giáo dục nghệ thuật, giáo dục thể chất, giáo dục hướng nghiệp.
- Giai đoạn giáo dục cơ bản thực hiện phương châm giáo dục toàn diện và tích hợp để đảm bảo trang bị cho học sinh kiến thức nền tảng, đáp ứng giai đoạn giáo dục phân hóa, định hướng nghề nghiệp [1]..
- Vì vậy, cần có những nghiên cứu về phương pháp xác định khái quát và có hệ thống nội dung tổng quát môn học trong CT GDPT.
- Phương pháp và các nội dung tổng quát này cũng là định hướng xây dựng nội dung chi tiết của các lĩnh vực giáo dục trong CT GDPT mới..
- Định hướng thiết kế nội dung môn học trong CT GDPT mới 1.1.
- Bản chất của dạy học tích hợp.
- Khi nghiên cứu về dạy học tích hợp, Xavier Roegier đã sử dụng thuật ngữ “La pédagogie de l’intégration”, dịch ra tiếng Việt là “Khoa sư phạm tích hợp” [5].
- Như vậy, thuyết sư phạm tích hợp được hiểu là các lý thuyết về dạy học tích hợp.
- “dạy học tích hợp”..
- Theo Xavier Rogiers, “Khoa sư phạm tích hợp là một quan niệm về quá trình học tập trong đó toàn thể các quá trình học tập góp phần hình thành ở học sinh những năng lực rõ ràng, có dự tính trước những điều cần thiết cho học sinh nhằm phục vụ cho quá trình học tập tương lai, hoặc hòa nhập học sinh vào cuộc sống lao động.
- Khoa sư phạm tích hợp làm cho quá trình học tập có ý nghĩa.”[5].
- Theo Nguyễn Văn Khải, “Dạy học tích hợp tạo ra các tình huống liên kết tri thức các môn học, đó là cơ hội phát triển các năng lực của học sinh.
- Theo Ngô Thị Ngọc Mai và Trần Trung Ninh, dạy học tích hợp là “quá trình dạy học mà ở đó các thành phần năng lực được tích hợp với nhau trên cơ sở các tình huống cụ thể trong đời sống để hình thành năng lực của người học” [4]..
- Như vậy, khi mô tả khái niệm Dạy học tích hợp, các tác giả trên đều nhấn mạnh đến 2 yếu tố:.
- Quá trình dạy học tập tạo ra các tình huống cụ thể..
- Hình thành năng lực người học..
- là nhấn mạnh rằng nó là một đơn vị tích hợp (ví dụ, có đủ kiến thức, kĩ năng nhưng cần phải tích hợp được nó để tạo nên đơn vị mục tiêu).
- Công thức trên cũng cho thấy, mục tiêu là sự thực hiện một kĩ năng (hoặc hoạt động) trên các nội dung tương ứng với nó.
- Một nền giáo dục tập trung việc hình thành, làm chủ các năng lực, thay vì sự gắn kết đơn giản của các kĩ năng là điều kiện tiên quyết để thực hiện tích hợp trong giáo dục [7]..
- Mục đích của tích hợp như vậy là để cho phép HS nắm vững những tình huống mà họ sẽ phải đối mặt trong cuộc sống, cho dù là trong công việc hay ngoài xã hội..
- Phát triển năng lực cũng là nguyên tắc xuyên suốt của chương trình giáo dục phổ thông mới.
- Mục đích của dạy học tích hợp là để hình thành và phát triển năng lực học sinh (HS).
- Như vậy, có thể thấy năng lực chỉ có thể hình thành và phát triển ở học sinh thông qua tổ chức dạy học bằng các hoạt động.
- Hoạt động xét về phương diện logic khoa học là một tổ hợp các thành phần kiến thức, kĩ năng của nhiều khoa học..
- Các kiến thức khoa học từ các môn học khác nhau phải được lựa chọn theo nguyên tắc hướng vào làm sáng tỏ một vấn đề nào đó có giá trị như một tiêu đề cốt lõi.
- Việc lựa chọn thành phần nội dung và phương pháp tổ chức học sinh lĩnh hội, vận dụng nội dung đó được định hướng bởi chủ đề cốt lõi có phạm vi khái quát ở các cấp độ khác nhau.
- Giá trị tích hợp hay phạm vi tích hợp tăng dần từ chủ đề cốt lõi trong một phân môn, trong một môn học (khoa học chuyên ngành), trong một lĩnh vực (khoa học tự nhiên, khoa học xã hội – nhân văn.
- Đó chính là bản chất của các thuật ngữ TÍCH HỢP NỘI MÔN, LIÊN MÔN, LIÊN LĨNH VỰC,....
- Dạy học theo hướng nội dung (hay dạy học truyền thống) lấy khối lượng kiến thức, kĩ năng làm mục tiêu hướng tới.
- Dạy học truyền thống dựa trên tiếp cận phát triển mạch nội dung từng môn học riêng lẻ theo logic đơn tuyến thì giá trị tích hợp là bé nhất, giá trị đó lớn hơn rất nhiều nếu chương trình lấy lĩnh vực khoa học làm đơn vị môn học (môn Khoa học tự nhiên, môn Khoa học xã hội, môn Khoa học về nhận thức khoa học/tri thức về tri thức).
- Mặt khác nếu các chủ đề đó đòi hỏi tổ hợp kiến thức từ nhiều nguồn để giải quyết một vấn đề của cuộc sống thì sẽ có “dung môi” tích hợp lớn nhất, có giá trị thực tiễn lớn nhất..
- Xác định logic tổ hợp/ tích hợp giữa các thành phần nội dung khoa học riêng lẻ bằng các chủ đề hội tụ.
- Chương trình giáo dục phổ thông mới sẽ triển khai theo tiếp cận năng lực trên cơ sở dạy học tích hợp nội môn, liên môn, liên lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội – nhân văn, khoa học – công nghệ.
- Sự kết hợp đó dựa trên nguyên lí “tích hợp là phương thức hình thành nhân cách phát triển toàn diện” [1].
- Tích hợp để phát triển nhân cách toàn diện khác cơ bản về chất theo cách hiểu lâu nay là dạy cho học sinh nhiều môn học riêng lẻ.
- Chẳng hạn môn khoa học tự nhiên có yêu cầu khác môn Vật lý, môn Hóa học, môn Sinh học riêng lẻ trong chương trình cấp học, bậc học, khối lớp.
- Phân biệt cách hiểu đó là rất quan trọng vì nó sẽ chi phối thành phần, cấu trúc nội dung, phương pháp dạy học, nội dung đánh giá kết quả học tập, biểu đạt mục tiêu.
- Nếu không có sự khác biệt đó thì việc đặt tên môn học chỉ là hình thức, dù có gọi đó là môn học tích hợp.
- xác định được logic tổ hợp/ tích hợp giữa các thành phần nội dung khoa học riêng lẻ bằng các chủ đề hội tụ.
- Thế giới khách quan – đối tượng nhận thức là hệ thống trọn vẹn, tri thức của con người về thế giới đó đương nhiên phải là mô hình trọn vẹn, trong khi đó quá trình dạy học lại được tổ chức theo từng môn học.
- Logic tổng – phân – hợp phải là logic nhất quán, xuyên suốt trong mọi yếu tổ của chương trình dạy học..
- Thiết kế nội dung môn học trong CT GDPT mới.
- Vận dụng logic Tổng - Phân - Hợp để thiết kế môn học.
- Tổng là một tập hợp các thành phần nội dung học tập có phạm vi khác nhau.
- Ví dụ nghiên cứu tính chất, sự vận động, năng lượng, cấu trúc – chức năng,… của thế giới vật chất (vô cơ, hữu cơ, thế giới sống) từ cấp độ nguyên tử, phân tử, cơ thể sống, quần xã, Trái đất, vũ trụ đều phải vận dụng các mô hình lý thuyết, các quy luật, các cấu trúc và hệ thống của lĩnh vực khoa học tự nhiên.
- Giới tự nhiên là một chỉnh thể cho nên chương trình môn khoa học phải cho học sinh tầm nhìn tổng thể, hiểu giới tự nhiên thông qua những nội dung cơ bản là các khái niệm, nguyên lý khoa học.
- Tổng có nhiều cấp độ, chẳng hạn tri thức về thế giới là một tổng bao gồm khoa học tự nhiên, khoa học về cơ thể con người, các quy trình công nghệ.
- khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học con người, công nghệ học.
- Nếu phân tiếp sẽ có tổng nhỏ bậc 3 như: trong khoa học tự nhiên có vật lý, Hóa học, sinh học, Trái đất, vũ trụ….
- Đó là bản chất tất yếu của dạy học tích hợp..
- Đó là quan hệ tương hỗ của tích hợp và phân hóa nội dung..
- Tóm lại tổng – phân – hợp là logic của tiếp cận dạy học phân hóa và tích hợp nội dung..
- Thiết kế mô hình dạy học theo logic trên sẽ cho cấu trúc nội dung dạy học của chương trình theo tiếp cận tích hợp - năng lực như sau: Lĩnh vực môn học  Các môn học  Các chủ đề.
- Gắn liền với tổng - phân - hợp về nội dung là tổng - phân - hợp về cấp độ năng lực:.
- Logic tổng - phân - hợp xét về nội dung hay xét về năng lực tương tự cách nhìn vật thật và nhìn qua gương phẳng mà thôi..
- Hình 1: Khung chương trình giáo dục phổ thông của Quebéc (Canada) [8].
- Quá trình dạy học các môn học phải đặt trong tọa độ logic giữa lĩnh vực môn học – các môn học – các năng lực chung - các năng lực chuyên biệt.
- Bảng 1: Logic giữa lĩnh vực học tập với các môn học và các năng lực tương ứng.
- Lĩnh vực học tập Các môn học Các năng lực.
- Thiết kế hệ thống các chủ đề cốt lõi và đề xuất cấu trúc nội dung dạy học lĩnh vực khoa học tự nhiên.
- Tiếp cận năng lực đòi hỏi dạy học tích hợp càng rộng càng có ý nghĩa.
- Ở bậc trung học có thể nên tập trung tích hợp ở phạm vi từng lĩnh vực môn học, một tỉ lệ ít hơn tích hợp giữa các lĩnh vực.
- Đặc biệt cấp THCS trọng tâm là tích hợp theo chủ đề trong phạm vi lĩnh vực môn học.
- Việc dạy học từng đơn vị nội dung ở bất kì cấp độ nào cũng phải đặt nó trong quan hệ với các nội dung thuộc các chủ đề khác và đó là bản chất dạy học tích hợp.
- Xác định lĩnh vực học tập là tạo điều kiện để dạy học tích hợp, tránh được thói quen theo logic tuyến tính từng môn học, từng đơn vị nội dung riêng rẽ.
- Từ lý luận và ví dụ nêu trên có thể kết luận: Xác định lĩnh vực môn học, các môn học thực chất là thiết kế các phạm vi tích hợp nội dung khác nhau.
- Để người thiết kế chương trình, biên soạn sách giáo khoa, người dạy, người học quán triệt tư tưởng tích hợp trong hành động, cần phải thiết kế các chủ đề cốt lõi thành một hệ thống.
- Chủ đề rộng nhất được xác định bằng việc trả lời câu hỏi: KHOA HỌC LÀ GÌ? Khoa học là kiến thức (knowledge), là các khái niệm có tính nguyên lí và quá trình tìm kiếm kiến thức về thế giới mà chúng ta tồn tại ở đó..
- Nếu lấy lịch sử phát triển tri thức của loài người đối chiếu với sự phát triển của mỗi HS như là hai hình đồng dạng thì thuở sơ khai con người nhìn sự vật, hiện tượng một cách tổng thể, dần dần tri thức phát triển do sự tích lũy ngày càng nhiều thì con người có khả năng đi sâu vào từng khía cạnh để từ đó, có nhiều kiến thức đa dạng hơn, cứ thế ngày càng đi sâu chi tiết để phân hóa thành nhiều lĩnh vực, từ nhiều lĩnh vực thành nhiều chuyên ngành sâu và hẹp dần (nhiều môn học), càng phân hóa sâu càng biết đầy đủ, trọn vẹn hơn thế giới khi thực hiện logic ngược lại là tích hợp lại cái chỉnh thể ban đầu.
- Giai đoạn sau (lĩnh vực sau) bao hàm tri thức lĩnh vực trước, tích hợp lĩnh vực trước.
- trúc tri thức khoa học của con người bao gồm hiểu biết về cấu trúc, về chức năng (hình thức vận động) của các đơn vị cấu trúc, về quan hệ biện chứng giữa cấu trúc – chức năng.
- Môn khoa học cần có cấu trúc như thế..
- Khoa học là sự phản ánh thế giới khách quan vào nhận thức con người cho nên HS cũng phải được tổ chức quá trình phản ánh đó.
- Tuy nhiên như trên đã nêu, lộ trình phát triển tri thức khoa học của nhân loại thường dẫn đến sự gia tăng theo cấp số nhân của những tri thức ngày càng phân hóa sâu dễ dẫn đến hình thành các môn họccó tính chuyên sâu làm cho nội dung giáo dục nhà trường dễ bị chia tách, thiếu kêt nối để hình thành tri thức có tính khái quát liên ngành dẫn tới sự khủng hoảng vừa thừa, vừa thiếu tri thức: thừa những tri thức cắt vụn, thiếu những tri thức phức hợp trong dạy học ở nhà trường.
- Các lập luận trên có thể được vận dụng để định hướng cho thiết kế lĩnh vực môn học, môn học, các chủ đề tích hợp trong chương trình và sách giáo khoa.
- Sau đây là ví dụ phân tích cơ sở thiết kế môn khoa học tự nhiên theo lý luận nêu trên:.
- Môn khoa học tự nhiên có mục tiêu là cung cấp cho HS công cụ để khám phá môi trường xung quanh, nâng cao năng lực phân tích, tìm hiểu và phát triển tư duy phê phán về hàng loạt các vấn đề liên quan đến môi trường sống, sức khỏe con người, quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh, hiểu về tự nhiên và các nguồn lực thiên nhiên, phát triển các kĩ năng hoạt động khoa học: quan sát, thí nghiệm, thực hành nghiên cứu xác định các vấn đề, đưa ra các bằng chứng để có những kết luận, nhận định khoa học, sử dụng kiến thức khoa học để giải quyết những vấn đề trong nhận thức, trong đời sống hàng ngày, phát triển kinh doanh, công nghệ..
- Với mục tiêu đó, cấu trúc khái quát nội dung dạy học lĩnh vực khoa học tự nhiên có thể có các chủ đề sau:.
- Các chủ đề thể hiện sự tích hợp chặt chẽ, phá vỡ ranh giới giữa các môn học truyền thống bằng việc xác định tên chủ đề theo các lĩnh vực tồn tại của vật chất trong tự nhiên..
- Giữa các lĩnh vực đó có thể thiết lập các quan hệ tích hợp theo quy luật quan hệ cấu trúc – chức năng, giữa hệ lớn – hệ nhỏ, giữa cấu trúc vi mô và vĩ mô, giữa thế giới vô cơ và hữu cơ, giữa các hình thức vận động của vật chất..
- Quan hệ giữa tri thức khoa học với công nghệ và ứng dụng trong đời sống hàng ngày..
- Giá trị nhận thức là việc bảo đảm cho HS có tư duy khái quát về tri thức khoa học tự nhiên, tức là hiểu biết về quy luật vận động tạo nên thuộc tính chung của các đối tượng trong thế giới khách quan.
- Với quan điểm đó, môn khoa học tự nhiên bao gồm kiến thức, kĩ năng chuyên biệt về vật lí, Hóa học, sinh học.
- Đó là các khoa học nghiên cứu bản chất vật lí, Hóa học, sinh học của các sự vật, hiện tượng tạo nên hành tinh – môi trường bao quanh chúng ta với các thuộc tính thường xuyên đem lại các giá trị cho sự tồn tại của loài người.
- Các chủ đề cốt lõi trong lĩnh vực khoa học tự nhiên đáp ứng định hướng mục tiêu đó có thể là:.
- Các chủ đề đó được giải quyết, làm sáng tỏ xuyên suốt nội dung dạy học vật lí, Hóa học, sinh học vừa làm tăng giá trị ứng dụng, vừa nâng hiểu biết của HS về thế giới ở cấp độ nhận thức khoa học có tính triết học, và đặc biệt sẽ có cơ hội thuận lợi cho việc đưa vào chương trình nội dung về Trái đất, về địa chất, vật lí địa cầu, khí tượng, bảo vệ môi trường, công nghệ hiện đại: nano, công nghệ sinh học, kĩ thuật gen, tế bào, vũ trụ.
- Mặc dù được phân chia thành các ngành khoa học khác nhau (Vật lí, Hóa học, Sinh học, Khoa học Trái đất.
- nhưng thực chất, khoa học tự nhiên là một thể thống nhất vốn có trong sự tồn tại của thế giới khách quan.
- Đến lượt nó, mỗi ngành khoa học lại được chia thành các chuyên ngành nhỏ hơn.
- Mục đích của việc phân chia này là để nghiên cứu chuyên sâu trên nền tảng kiến thức khái quát làm cơ sở cho việc nghiên cứu các chuyên ngành khoa học hẹp..
- Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với CT GDPT mới là cần phải thiết kế được nội dung các môn học vừa truyền tải được nội dung khoa học chuyên ngành, vừa khái quát được nền tảng của lĩnh vực KHTN khi dạy học mỗi nội dung đó.
- Việc vận dụng logic Tổng – Phân – Hợp để xác định nội dung các môn học sẽ giải quyết được yêu cầu đó, giúp cho HS có được cái nhìn về mối quan hệ giữa các nội dung khoa học đơn lẻ trong bối cảnh một bức tranh tổng thể về thế giới tự nhiên xung quanh.
- Đinh Quang Báo (chủ biên), Phan Thị Thanh Hội, Trần Thị Gái, Nguyễn Thị Việt Nga (2018), Dạy học phát triển năng lực môn Sinh học Trung học Phổ thông, NXB Đại học Sư phạm, tr.34..
- Nguyễn Văn Khải (2008), “Vận dụng TTSPTH vào dạy học vật lí ở trường THPT để nâng cao chất lượng giáo dục học sinh”, Báo cáo tổng kết đề tài khoa học cấp Bộ 1/2008..
- Ngô Thị Ngọc Mai, Trần Trung Ninh (2014), “Phát triển năng lực khoa học cho học sinh từ việc nâng cao năng lực dạy học tích hợp cho giáo viên và sinh viên sư phạm Hóa học”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia về Nâng cao năng lực đào tạo giáo viên dạy tích hợp môn Khoa học Tự nhiên ở Trường Đại học Sư phạm, 102-108..
- Xavier Roegiers (1996), Đào Trọng Quang, Nguyễn Ngọc Nhi (dịch), Khoa sư phạm tích hợp hay làm thế nào để phát triển năng lực ở nhà trường, NXB Giáo dục, Hà Nội.

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt