« Home « Kết quả tìm kiếm

Phát triển Khoa học Quản lí giáo dục


Tóm tắt Xem thử

- Phát triển Khoa học Quản lí giáo dục.
- Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam.
- Quản lí giáo dục (QLGD) là một lĩnh vực khoa học còn non trẻ đối với thế giới, điều đó càng đúng với Việt Nam.
- Vào những năm 90 của thế kỉ XX, Khoa học QLGD (KHQLGD) lúc đầu chỉ là một phân môn của Khoa học giáo dục (GD), được giảng dạy như một chuyên đề trong các trường sư phạm và được tiến hành nghiên cứu (NC) trong một số viện NC về GD.
- Nguyên nhân của những bất cập trên là do việc QLGD vẫn dừng lại ở kinh nghiệm chủ nghĩa mà chưa dựa trên những căn cứ khoa học và kết quả NC của KHQLGD.
- Vì vậy, việc NC những vấn đề của KHQLGD, tìm ra những bất cập trong NC và giải pháp ứng dụng triển khai kết quả NC KHQLGD vào thực tiễn nhằm xác lập những cơ sở khoa học cho việc đổi mới căn bản và toàn diện nền GD Việt Nam là một yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn rất lớn..
- Một số vấn đề chung về Khoa học Quản lí giáo dục Nhiều quốc gia trên thế giới (OECD, Pháp, Trung Quốc.
- Theo Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013: Khoa học là hệ thống tri thức về các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Khoa học được hiểu là hệ thống những tri thức, mối quan hệ bản chất về các quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy của con người.
- Tri thức của nhân loại gồm 2 hệ thống: Tri thức kinh nghiệm và tri thức khoa học.
- Có thể là các tác giả quốc tế coi QLGD là một khoa học còn non trẻ và chưa đạt đến mức độ cần thiết của một lĩnh vực nghiên cứu khoa học độc lập và do vậy vẫn coi các nội dung của QLGD tương tự như quản lí nói chung của các loại tổ chức khác.
- Điều này nói lên rằng, QLGD thực ra chỉ là sự nhấn mạnh quản lí trong môi trường GD nên không nhất TÓM TẮT: Bài viết trình bày khái quát về sự hình thành và phát triển bộ môn Khoa học Quản lí giáo dục trên thế giới và Việt Nam như: Một số vấn đề chung về Khoa học Quản lí giáo dục, lịch sử hình thành và phát triển bộ môn Khoa học Quản lí giáo dục, những kết quả nghiên cứu về Khoa học Quản lí giáo dục..
- Trên cơ sở nhu cầu thực tiễn đổi mới giáo dục và quản lí giáo dục ở Việt Nam, bài viết đề xuất những định hướng nghiên cứu và các giải pháp phát triển Khoa học Quản lí giáo dục trong bối cảnh mới..
- TỪ KHÓA: Khoa học.
- Khoa học Quản lí giáo dục.
- nghiên cứu Khoa học Quản lí giáo dục.
- phát triển Khoa học Quản lí giáo dục..
- thiết ở thời điểm này phải có sự phân biệt đến mức tách biệt có một khoa học QLGD độc lập nào đó (Theo Bush T.
- thì QLGD là một khoa học còn rất non trẻ và bắt đầu phát triển ở Anh quốc mới từ năm 1988 [1].
- thì các thuyết về QLGD có thể được coi là phát triển từ những năm 50 nếu xét dưới góc độ như một khoa học xã hội ứng dụng.
- Được coi là khoa học ứng dụng vì QLGD sử dụng các khái quát hóa của các khoa học về tâm lí học, tâm lí xã hội học, nhân chủng học, kinh tế học.
- Lịch sử hình thành và phát triển bộ môn Khoa học Quản lí giáo dục.
- KHQLGD là phân môn của Khoa học GD, được hình thành và phát triển trên cơ sở tích hợp giữa Khoa học GD và Khoa học Quản lí.
- Đầu những năm 1950, có sự “thay đổi lí thuyết trong quản trị GD” đó là: Tập trung vào nhu cầu nâng cao các hoạt động học thuật thông qua ứng dụng các nguyên tắc khoa học dựa vào thực chứng chứ không chỉ niềm tin lí tưởng, kinh nghiệm và miêu tả cá nhân trong QLGD (Getzels, 1968;.
- quản lí nhà trường (tổ chức).
- quản lí Nhà nước về GD.
- KHQLGD là sự tích hợp của nhiều môn khoa học: Khoa học về QLGD được coi là một khoa học ứng dụng về hành vi được xây dựng trên cơ sở các khoa học hành vi khác như tâm lí học, xã hội học, tâm lí học xã hội, nhân loại học và chính trị học.
- Nếu như tâm lí học chủ yếu đóng góp các cơ sở lí luận ở cấp độ cá thể và vi mô thì bốn lĩnh vực khoa học còn lại giúp chúng ta hiểu biết về các khái niệm ở cấp độ vĩ mô như các quá trình tổ chức.
- Nghiên cứu Khoa học Quản lí giáo dục.
- NC KHQLGD là một hoạt động khoa học đặc thù trong lĩnh vực GD.
- gắng hiểu biết nhằm tìm ra được cách giải thích một cách khoa học có kiểm chứng về cấu trúc, cơ chế vận hành, cùng biện chứng của sự phát triển của một cơ sở hay hệ thống GD nào đó, hay nhằm khám phá ra những khái niệm, những quy luật mới của thực tiễn QLGD mà trước đó chưa ai biết đến..
- Khung lí thuyết được xây dựng trên cơ sở những tiếp cận và phương pháp tiếp cận khoa học khác nhau.
- Khung lí thuyết thể hiện quan điểm khoa học của nhà NC, nó là cơ sở để triển khai các bước tiếp theo của quy trình NC.
- thì những kết quả của NC khoa học sẽ không trung thực, sai lệch với thực tiễn và tất nhiên sẽ không trở thành tri thức khoa học;.
- 4/ Xử lí dữ liệu: Ðây là công việc quan trọng nhất, giá trị nhất của NC khoa học.
- Giải pháp phát triển Khoa học Quản lí giáo dục a.
- Tiến hành NC, khảo sát, đánh giá chính xác thực trạng hoạt động QLGD và đào tạo ở mọi cấp học, các yếu tố ảnh hưởng trong và ngoài nhà trường để đưa ra những dự báo, kế hoạch NC khoa học sát với thực tiễn QLGD.
- Gắn các mục tiêu, nhiệm vụ NC khoa học GD và QLGD với các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển GD của từng cấp, ngành học.
- Phải coi kế hoạch phát triển khoa học GD và QLGD là một nội dung của quy hoạch, kế hoạch phát triển của ngành GD và ở mỗi địa phương..
- Có cơ chế khuyến khích những bài báo khoa học về QLGD đăng quốc tế, nhằm phát triển KHQLGD nói chung và phương pháp NC về KHQLGD đạt trình độ quốc tế..
- Hoàn thiện hệ thống lí luận khoa học và phương pháp luận về QLGD, hệ thống tri thức về QLGD và môi trường GD làm cơ sở khoa học cho sự lựa chọn những sự kiện, vấn đề QLGD nảy sinh trong thực tiễn làm đối tượng NC, nhằm khắc phục sự chủ quan, phiến diện, kinh nghiệm chủ nghĩa khi NC khoa học.
- Áp dụng những phương pháp mới vào NC KHQLGD Mục tiêu: Đội ngũ NC viên và giảng viên về QLGD có khả năng áp dụng được các phương pháp và kĩ thuật NC KHQLGD đảm bảo tính hiện đại có độ tin cậy cao, phù hợp với xu hướng phát triển của khoa học thế giới..
- Xây dựng hệ thống các phương pháp luận và phương pháp NC có tính đặc thù của KHQLGD trên cơ sở những phương pháp NC của các khoa học có liên quan như GD học, Tâm lí học, Kinh tế học, Xã hội học.
- Ứng dụng công nghệ thông tin vào NC đề tài KHQLGD với mục tiêu nhằm nâng cao hiệu quả và độ tin cậy của kết quả NC và những nhiệm vụ NC khoa học tại các cơ sở NC và giảng dạy về QLGD..
- Đảm bảo tính khách quan của phương pháp: Tính khách quan vừa là một đặc điểm của NC khoa học, vừa là một tiêu chuẩn đối với người NC khoa học.
- Khi đã xác định rõ mục tiêu, đối tượng và giả thuyết NC của đề tài khoa học thì người NC tiếp tục xác định phương pháp NC phù hợp.
- Thành lập các trung tâm phân tích và đánh giá kết quả NC KHQLGD ở các cơ sở NC khoa học GD, tiếp cận với chuẩn quốc tế..
- Ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lí hoạt động NC khoa học nhằm cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, từng bước đáp ứng các yêu cầu trong việc cải tiến kịp thời giữa cơ quan quản lí với cơ sở NC và giữa các cán bộ NC..
- Thực hiện cơ chế đặt hàng trong NC khoa học cũng như tiếp nhận, ứng dụng kết quả NC.
- Đổi mới cơ chế quản lí các hoạt động khoa học và công nghệ..
- Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lí NC khoa học, qua hệ thống dữ liệu về nguồn lực khoa học - công nghệ hằng năm được người có trách nhiệm cập nhật gồm (hồ sơ của cán bộ làm công tác khoa học, cơ sở vật chất của đơn vị khoa học, nguồn nhân lực, tài lực.
- được máy tính lưu trữ theo cấu trúc, định dạng sẽ hỗ trợ trong việc tổ chức thực hiện một kế hoạch phát triển khoa học - công nghệ.
- Cụ thể, khi triển khai một nhiệm vụ khoa học - công nghệ nào đó, chúng ta cần phải có những thông tin cơ bản của đơn vị dự kiến giao nhiệm vụ: Cơ sở vật chất của đơn vị, nguồn nhân lực NC khoa học, kết quả NC khoa học được ứng dụng trong những năm gần đây.
- Những thông tin này được lưu trữ trong máy tính dưới dạng một cơ sở dữ liệu, khi cần, thông qua một phần mềm công cụ tìm kiếm, người quản lí khoa học - công nghệ có thể nhận được kết quả ngay..
- Phát huy vai trò của các đơn vị quản lí cơ sở trong quá trình triển khai đề tài NC.
- Khi hoàn tất hoạt động NC, chủ nhiệm đề tài cần tổ chức báo cáo kết quả NC của đề tài trước lãnh đạo đơn vị và hội đồng khoa học đơn vị cơ sở để nhận những góp ý cuối cùng trước khi đăng kí bảo vệ chính thức..
- Đẩy mạnh thực hiện cơ chế đặt hàng, đấu thầu thực hiện nhiệm vụ khoa học và cơ chế khoán kinh phí đến sản phẩm khoa học và công nghệ cuối cùng theo kết quả đầu ra.
- Với những đề tài thuộc lĩnh vực khoa học quản lí, cần ưu tiên cho những cơ sở NC có tính đặc thù..
- Xây dựng cơ chế đặc thù trong quản lí, sử dụng ngân sách Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ theo hướng giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ khoa học.
- Hình thành cơ chế đánh giá độc lập, tư vấn, phản biện, giám định xã hội đối với các hoạt động khoa học và công nghệ..
- Tăng cường liên kết giữa tổ chức khoa học GD với cơ quan quản lí và cơ sở GD trong việc thực hiện nhiệm vụ NC ứng dụng và đào tạo nhân lực..
- Cần đổi mới tư duy khi xây dựng các chương trình NC KHQLGD và cơ chế hình thành các đề tài NC khoa học ở các cấp, nâng cao trình độ quản lí, tổ chức hoạt động NC khoa học, tăng cường tính năng động, nhạy bén và khả năng thích ứng với yêu cầu, nhu cầu thực tế của cá nhân, đơn vị NC..
- Xây dựng các chương trình, kế hoạch NC KHQLGD phù hợp, trên cơ sở chiến lược phát triển NC khoa học và thế mạnh của đơn vị, cơ sở.
- Tạo môi trường thuận lợi, điều kiện vật chất để cán bộ khoa học phát triển bằng tài năng và hưởng lợi ích xứng đáng với giá trị lao động sáng tạo của mình.
- Nâng cao năng lực, trình độ và phẩm chất của cán bộ quản lí khoa học và công nghệ ở các ngành, các cấp..
- Sử dụng và hợp tác hiệu quả đội ngũ sinh viên, NC sinh, thực tập sinh, chuyên gia khoa học và công nghệ học tập và làm việc ở nước ngoài.
- Bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của tác giả các công trình khoa học.
- Ðổi mới công tác tuyển dụng, bố trí, đánh giá và bổ nhiệm cán bộ khoa học và công nghệ.
- Có chính sách tiếp tục sử dụng cán bộ khoa học và công nghệ trình độ cao đã hết tuổi lao động có tâm huyết và còn sức khoẻ làm việc vào công tác NC khoa học..
- Thực hiện chế độ khoán kinh phí cho các đề tài NC khoa học trên cơ sở sản phẩm cuối cùng..
- Bảo đảm đồng bộ, gắn kết giữa định hướng phát triển dài hạn, chương trình phát triển trung hạn với kế hoạch NC, ứng dụng khoa học hằng năm..
- Sắp xếp lại hệ thống cơ sở NC và đào tạo QLGD Mục tiêu: Hệ thống cơ sở NC và đào tạo về QLGD được tái cấu trúc theo hướng thống nhất giữa mục tiêu - cơ cấu tổ chức - cơ chế quản lí của hệ thống các cơ sở NC khoa học GD.
- Kế thừa và phát triển những thành tựu NC của khoa học GD.
- Phân cấp quản lí và giao quyền tự chủ tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở NC khoa học GD.
- Thu hẹp đầu mối của hệ thống các cơ sở NC khoa học GD.
- Đảm bảo tính hội nhập quốc tế về NC khoa học GD..
- Hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ sở NC và đào tạo về KHQLGD.
- Bố trí hợp lí lực lượng NC khoa học GD theo các hướng ưu tiên.
- Tập trung quản lí, đầu tư xây dựng các trung tâm khoa học để thực hiện các nhiệm vụ NC khoa học cơ bản về KHQLGD và các chương trình NC quốc gia..
- Có sự liên kết, liên thông giữa các cơ sở NC khoa học GD trong nước phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhu cầu học tập nâng cao kiến thức của xã hội.
- Liên kết với các cơ sở NC khoa học GD quốc tế..
- Tạo điều kiện thuận lợi để mọi cơ sở NC khoa học GD được tự chủ phát huy nội lực, tiếp thu các thành tựu tiên tiến của thế giới, phát huy mọi khả năng lao động sáng tạo, mọi khả năng liên kết để có nhiều đóp góp xây dựng đất nước, phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội..
- Có lộ trình thích hợp: Việc sắp xếp lại hệ thống các cơ sở NC khoa học GD là một quá trình, do đó cần có lộ trình, bước đi thích hợp để thực hiện một cách hiệu quả, tiết kiệm, công khai, đảm bảo tính đồng bộ, hợp lí để đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế.
- Trước hết, cần làm cho đội ngũ cán bộ khoa học thấy rõ yêu cầu cần thiết cũng như những lợi ích của việc sắp xếp lại hệ thống các cơ sở NC khoa học GD để tạo sự đồng thuận, tự giác thực hiện vì lợi ích chung..
- Mỗi tổ chức khoa học GD đều có những thành quả nhất định trong quá trình hoạt động NC, do đó việc sắp xếp cần đảm bảo kế thừa, phát huy được những thành quả và kinh nghiệm đã tích lũy đồng thời tạo đà để cơ sở NC khoa học GD ngày càng phát triển..
- Tăng cường liên kết, hợp tác chặt chẽ giữa các tổ chức NC khoa học GD bằng những cơ chế “gắn kết lợi ích”..
- Trong quá trình sắp xếp hệ thống các cơ sở NC khoa học GD, cần thực hiện đúng và đầy đủ chủ trương phân cấp quản lí, đồng thời đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức công lập, các doanh nghiệp theo tinh thần của Nghị định 115/NĐ-CP, Nghị định 80/2007/NĐ-CP của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn, quy định của các cơ quan quản lí có liên quan..
- Việc NC sắp xếp cơ sở NC khoa học GD cũng đòi hỏi phải tăng cường đầu tư, kiện toàn hệ thống các cơ quan quản lí Nhà nước về GD để có đủ quyền hạn, trách nhiệm và năng lực trong quản lí, phát triển các ngành khoa học, các tổ chức khoa học, đáp ứng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và hội nhập quốc tế..
- Các cơ quan quản lí Nhà nước về khoa học GD một mặt tập trung rà soát, bổ sung, điều chỉnh, xây dựng và ban hành đồng bộ hệ thống các quy định, quy chế, quy trình công tác, mặt khác cần kết phối hợp chặt chẽ với nhau, với các cơ quan kế hoạch, tài chính, đồng thời cần đổi mới hình thức quản lí theo phân cấp, tự chủ kết hợp với quản lí đa ngành, đa lĩnh vực theo nội dung, chủ đề NC khoa học GD để phù hợp với yêu cầu sự phát triển của GD và đào tạo..
- Nâng cao trình độ đội ngũ các bộ quản lí hoạt động NC khoa học là yếu tố hàng đầu quyết định sự thành công của hệ thống đề tài, là uy tín và tên tuổi của một đơn vị NC trong Bộ GD&ĐT.
- Tăng cường tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng, các nghị quyết, văn bản của Nhà nước, của các đơn vị quản lí Nhà nước về khoa học và công nghệ, của Bộ GD&ĐT về công tác quản lí NC khoa học và hoạt động NC khoa học tới đội ngũ cán bộ quản lí và cán bộ NC để định hướng hoạt động và có trách nhiệm nâng cao chất lượng công tác chuyên môn, đổi mới cách làm, cách nghĩ trong quản lí NC khoa học..
- Đầu tư cho lĩnh vực khoa học GD còn rất thấp, trang thiết bị của các viện NC, các trường đại học nhìn chung còn thiếu, không đồng bộ.
- So với các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam còn có khoảng cách rất lớn về tiềm lực và kết quả hoạt động trong NC khoa học GD.
- Hoạt động NC của các tổ chức NC khoa học GD chưa thật sự hiệu quả, chưa sát với thực tế và yêu cầu của nền kinh tế - xã hội của nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế..
- Gắn NC QLGD với quy hoạch phát triển nhân lực khoa học: Để thực hiện kế hoạch trên đòi hỏi phải: Một mặt, tập trung nâng cao năng lực và có quy hoạch phát triển đội ngũ để luôn tồn tại đan xen lớp chuyên gia đầu đàn, lớp chuyên gia có khả năng độc lập triển khai NC và các cán bộ trợ lí NC về QLGD.
- NC khoa học chỉ có thể thành công với điều kiện có những đảm bảo nhất định về nguồn lực: Nguồn lực con người, cơ sở vật chất, tài chính, thông tin và những điều kiện đảm bảo khác.
- Nhiều công trình NC khoa học, đặc biệt là khoa học công nghệ đòi hỏi phải có những nhà xưởng, phòng thí nghiệm, máy móc và thiết bị hiện đại mới có thể đảm bảo cho NC đạt được kết quả..
- Chính vì vậy, chúng ta phải tạo điều kiện thuận lợi nhất về cơ sở vật chất cho các NC về khoa học công nghệ..
- Thực hiện triệt để cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập về nhân lực, kinh phí hoạt động dựa trên kết quả và hiệu quả hoạt động..
- Triển khai hợp tác khoa học GD tầm quốc gia với các nước tiên tiến về khoa học GD là đối tác chiến lược của Việt Nam.
- [4] Phan Văn Nhân, (2013), Đề tài cấp Bộ Khoa học Quản lí Giáo dục - Vấn đề và giải pháp, Mã số: B

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt