« Home « Kết quả tìm kiếm

Tổng quan một số vấn đề cơ sở lí luận của Dạy học phân hóa


Tóm tắt Xem thử

- Tổng quan một số vấn đề cơ sở lí luận của Dạy học phân hóa.
- Dạy học phân hóa (DHPH) là một trong những định hướng cơ bản của giáo dục phổ thông sau 2015.
- Bài báo tập trung trình bày tổng quan một số vấn đề cơ sở lí luận của DHPH: lý thuyết xã hội học của quá trình dạy học.
- lý thuyết về vùng phát triển gần nhất;.
- trình độ nhận thức, sở thích, phong cách học của học sinh (HS), định hướng dạy học tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh.
- Từ khóa: dạy học phân hóa.
- thuyết đa trí tuệ, vùng phát triển gần nhất..
- Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI nêu rõ định hướng: “Giáo dục Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân.
- Để thực hiện tốt nội dung đó, DHPH phải được xem như một trong những định hướng cơ bản của đổi mới giáo dục phổ thông Việt Nam sau 2015 nhằm phát triển nền giáo dục nước nhà theo định hướng tiếp cận năng lực người học..
- DHPH được nghiên cứu và vận dụng ở rất nhiều nước trên thế giới, trong đó phát triển nhất là ở Mỹ.
- Gibson (2010) đã viết: “DHPH không phải là một xu hướng dạy học mới và cũng không phải là một quan niệm mới về dạy học” (theo [2.
- 2.1 Lý thuyết xã hội học của quá trình dạy học.
- Qua nghiên cứu, tìm hiểu các tài liệu chúng tôi nhận thấy một số nhà giáo dục và nghiên cứu giáo dục xem lí thuyết về mặt xã hội học được xây dựng bởi nhà tâm lí học Nga, Vygotsky là cơ sở để nghiên cứu về quá trình giáo dục, sự thay đổi trong lớp học và tái phát triển (Blanton, 1998.
- Lí thuyết về mặt văn hóa xã hội với những nghiên cứu của Vygotsky và sau đó là Wertsch đem lại nhiều ý nghĩa tích cực đối với quá trình dạy học và giáo dục trong nhà trường.
- Lí thuyết này dựa trên tiền đề cho rằng mỗi cá nhân HS phải được học tập trong một xã hội cụ thể và bối cảnh văn hóa nhất định (Blanton, 1998.
- Những hoàn cảnh xác định như vậy là cần thiết cho sự phát triển các chức năng bậc cao hơn và các chức năng này chỉ có thể được hình thành và phát triển nhờ các nhân tố xã hội (Blanton, 1998.
- Do đó, nhân tố xã hội là cơ sở cho sự phát triển của nhận thức (Kearsley, 1996;.
- Hơn nữa, lí thuyết của Vygotsky cũng đưa ra quan điểm xem giáo dục là một quá trình diễn ra và phát triển liên tục chứ không phải là sản phẩm của một quá trình (Riddle và Dabbagh, 1999) (theo [6])..
- Tomlinson (2010) chỉ ra rằng GV là người được đào tạo để hướng dẫn, điều khiển quá trình dạy học.
- Bằng cách sử dụng các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học thích hợp, GV sẽ giúp mỗi người học đạt đến tiềm năng học tập của mình trong hoàn cảnh nhất định.
- HS, dưới sự hướng dẫn, điều khiển của GV sẽ độc lập, tự giác và tích cực nhận thức để chiếm lĩnh các kiến thức, kĩ năng và có thái độ học tập ngày càng tốt hơn.
- Mối quan hệ giữa HS và GV rõ ràng là mối quan hệ tương hỗ, tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau, những nỗ lực chung của cả GV và HS sẽ nâng cao chất lượng dạy học.
- Ngược lại những hạn chế trong kĩ năng giảng dạy của GV cũng sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến HS trong phát triển vùng phát triển gần nhất của các em..
- Thực tiễn dạy học hiện nay cho thấy, GV không còn là người đứng trước lớp để thuyết trình từ đầu đến cuối về những gì HS cần học nữa.
- Để đáp ứng nhu cầu của tất cả HS và khuyến khích các em phát huy thế mạnh, ưu điểm của mình, GV cần tiến hành dạy học theo định hướng phân hóa..
- Lý thuyết về vùng phát triển gần nhất.
- Nhìn chung, dạy học bằng cách này hay cách khác đều nhằm mục đích góp phần phát triển HS nhưng dạy học được coi là đúng đắn nhất nếu nó đem lại sự phát triển tốt nhất cho người học.
- Vygotsky nhà tâm lí học Nga cho rằng: “Dạy học được.
- 34 coi là tốt nhất nếu nó đi trước sự phát triển và kéo theo sự phát triển” (theo [2.
- Cơ sở của quan điểm này là lí thuyết về vùng phát triển gần nhất - ZPD (Zone of Proximal Development).
- Vygotsky mô tả ZPD là sự khác biệt giữa mức độ phát triển thực tế và mức độ phát triển có thể đạt được.
- Một mặt trí tuệ của HS chỉ có thể phát triển tốt trong quá trình dạy học khi thầy giáo phát huy tốt vai trò của người tổ chức, điều khiển, làm giảm nhẹ khó khăn cho HS trong quá trình nhận thức, biết cách khuyến khích HS tích cực tham gia vào hoạt động nhận thức.
- Mặt khác đối với HS để phát triển trí tuệ của mình không có cách nào khác là phải tự mình hoạt động, hoạt động một cách tích cực và tự giác.
- Đó chính là bản chất của của mối quan hệ biện chứng giữa dạy và học, giữa hoạt động và phát triển..
- Thông qua hoạt động trí tuệ, HS phát triển dần từng bước từ thấp đến cao.
- Bởi vậy các biện pháp giáo dục của thầy cũng phải thay đổi cho phù hợp với từng bậc thang của sự phát triển.
- Theo lí thuyết của Vygotsky, trình độ ban đầu của HS tương ứng với “vùng phát triển hiện tại”.
- Vygotsky gọi đó là “vùng phát triển gần nhất”.
- Sau đó thầy giáo lại tiếp tục tổ chức và giúp đỡ HS đưa HS tới “vùng phát triển gần nhất” mới để sau đó nó lại trở về “vùng phát triển hiện tại”.
- Cứ tiếp tục như vậy sự phát triển của HS đi từ nấc thang này đến nấc thang khác cao hơn..
- Vygotsky cũng chỉ ra rằng ở những trẻ em khác nhau có vùng phát triển gần nhất khác nhau và ZPD của mỗi đứa trẻ sẽ phát triển thế nào phụ thuộc rất nhiều vào trình độ, năng lực của người thầy.
- Nội dung dạy học, quy trình dạy học và cách HS thể hiện những gì được học khi tiến hành dạy học theo định hướng phân hóa cần phù hợp với vùng phát triển gần nhất của mỗi cá nhân..
- Các nhà giáo dục cũng chỉ ra rằng một HS sẽ phát triển vùng phát triển gần nhất của mình và từ đó học tập độc lập được nếu người đó trước hết được hướng dẫn bởi một GV hoặc chuyên gia giáo dục (Blanton, 1998.
- Theo đó, quá trình dạy học tích cực thừa nhận những gì mà người học đã biết trước khi một kĩ năng mới được dạy hoặc kiến thức mới được giới thiệu (MacGillivray và Rueda, 2001).
- Kĩ năng của người học chỉ có thể được mở rộng và phát triển phong phú thông qua các hướng dẫn có mục đích của GV hoặc người lớn (Blanton, 1998.
- Vai trò của GV lúc này trở thành người hướng dẫn, điều khiển có mục đích quá trình dạy học nhằm giúp HS phát triển vùng phát triển gần nhất của mình (Blanton, 1998.
- Nhà tâm lí học người Mỹ, Gardner phát triển Thuyết Đa Trí tuệ cũng nhận định rằng mỗi người có trí tuệ khác nhau và học hỏi bằng nhiều cách khác nhau.
- 35 Các lí thuyết về cách HS học, nội dung các em học và kế hoạch dạy học của GV đã được các nhà giáo dục học tập trung thảo luận rất nhiều (Burton, 2000.
- Một kĩ thuật dạy học hoặc chương trình phụ thuộc rất nhiều vào một trong những năng lực tư duy này (Amstrong, 2009) (theo [2.
- Các năng lực tư duy khác nhau được xem như là công cụ để học tập và giải quyết vấn đề (Campbell và cộng sự, 1999.
- Green, 1999), tạo cơ hội cho tất cả HS bằng cách làm phong phú thêm lớp học thông qua nhiều kỹ thuật và các hình thức đánh giá, phát triển HS và phát huy điểm mạnh của chúng (Campbell và cộng sự., 1999.
- Và ngay từ tuổi bắt đầu đi học, mỗi đứa trẻ đã bộc lộ thiên hướng phát triển các trí tuệ đặc trưng nào đó của mình.
- Có em mạnh ở tư duy lôgic toán học, có em phát triển tư duy về ngôn ngữ,....
- Việc dạy học trên lớp chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố giới tính, văn hóa, kinh nghiệm, trình độ, năng khiếu, sở thích của HS và đặc biệt là cách tiếp cận dạy học cụ thể (Guild, năm 2001.
- Tham gia vào quá trình DHPH, mỗi HS sẽ được trao thêm cơ hội để đạt được mục tiêu học tập trên cơ sở xem xét các em dưới góc độ cá nhân (Fischer và Rose, 2001.
- Nhờ khả năng xác định phong cách học của HS và có cách dạy phù hợp GV có thể hỗ trợ HS đạt được kết quả học tập tốt hơn và cải thiện thái độ của các em đối với việc học (Green, 1999).
- HS thể hiện kết quả học tập tốt hơn đáng kể khi các em được dạy học thông qua phương pháp tiếp cận phù hợp với phong cách học so với những phương pháp dạy học truyền thống.
- Hơn nữa, thái độ học tập của HS cũng được cải thiện đáng kể khi các em được khai thác điểm mạnh của mình trong quá trình dạy học (theo [5])..
- GV nên tìm cách tích cực hóa hoạt động học tập của HS bằng cách khai thác những gì mà các em hứng thú, quan tâm và tạo mối liên hệ giữa những vấn đề đó với những gì diễn ra hàng ngày trên lớp.
- Các hoạt động và các cuộc thảo luận được xây dựng xung quanh mối quan tâm của HS và kinh nghiệm sống của các em sẽ làm cho nội dung dạy học trở nên gần gũi, có ý nghĩa hơn (Bosch, 2001;.
- Trong lớp học phân hóa, GV có nghĩa vụ tìm hiểu những yếu tố khác biệt đó để tối đa hóa tiềm năng học tập của mỗi HS trong lớp..
- DHPH còn chỉ ra rằng GV nên lên kế hoạch các nội dung dạy học và các hoạt động dạy học của mình cho phù hợp với phong cách học của HS.
- Hơn thế, DHPH có thể tạo cơ hội để thúc đẩy nhóm học tập và cung cấp các lựa chọn cho cá nhân học tập độc lập..
- Những GV nắm rõ nhu cầu học tập của HS sẽ giúp các em có được những lựa chọn hiệu.
- 37 quả về phương pháp học tập tốt nhất, đồng thời, điều này cũng tạo điều kiện cho GV đưa ra những nhiệm vụ ưu tiên nhằm phát huy kinh nghiệm học tập của từng HS.
- Học sinh, với kế hoạch học tập của cá nhân mình, có thể được hướng dẫn hoàn thành nhiệm vụ để thông qua đó, hình thành và rèn luyện những kĩ năng cần thiết trong khi đẩy nhanh chương trình học được đưa ra dưới dạng chương trình đóng kín hoặc nghiên cứu chủ đề độc lập (theo [2.
- DHPH giúp GV có thể tiến hành dạy học dựa trên các chủ đề, đưa những kiến thức có liên quan và có ý nghĩa vào quá trình dạy học..
- DHPH phát triển các cơ hội thành công trong học tập cho HS.
- GV cần có khả năng phân hóa trình độ nhận thức của HS để từ đó quan tâm và cung cấp những nhiệm vụ dạy học phù hợp, không quá khó hoặc quá dễ đối với từng đối tượng..
- Tomlinson xác định DHPH là một triết lí dạy học dựa trên tiền đề cho rằng HS học tốt nhất khi GV điều chỉnh quá trình dạy học cho phù hợp với trình độ, sở thích và phong cách học tập của các em.
- Mục tiêu chính của DHPH là nhằm “tối đa hóa khả năng học tập của HS”.
- Ngoài ra, Tomlinson cũng chỉ ra DHPH có thể được thực hiện theo nhiều cách khác nhau và nếu GV sẵn sàng sử dụng triết lí dạy học này trong quá trình dạy học thì nhu cầu học tập của HS sẽ được đáp ứng nhiều hơn.
- Tomlinson (2000) cho rằng "DHPH không chỉ là một chiến lược dạy học, cũng không phải là một công thức để dạy học mà là một cách tư duy mới về quá trình dạy và học".
- Những hạn chế khi dạy học đồng loạt.
- GV ngày nay cần phải biết làm thế nào để đáp ứng với sự đa dạng luôn được nảy sinh trong quá trình dạy học (Fischer và Rose, năm 2001.
- Bên cạnh đó, việc đáp ứng những nhu cầu học tập của HS sẽ thúc đẩy động cơ học tập và phát huy được tính tích cực học tập của HS (Stronge, 2004.
- Trong môi trường học tập DHPH, GV và các lực lượng liên quan tạo ra những điều kiện dạy học tốt nhất cho HS.
- DHPH đưa ra những biện pháp hiệu quả trong việc giải quyết tính đa dạng của HS, tránh những hạn chế của dạy học đồng loạt (McBride, 2004).
- trong phát triển những năng lực nhận thức và phong cách học khác nhau (Lawrence, 2004.
- Các lớp học phân hóa cần cân đối nhu cầu học tập chung của tất cả HS với nhu cầu cụ thể của từng đối tượng.
- DHPH có thể giải phóng các em khỏi việc bị “gắn nhãn”, cung cấp cho từng em cơ hội học tập tốt nhất..
- Định hướng dạy học tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh.
- Một nguyên lí cơ bản của DHPH là GV phải lôi cuốn tất cả HS tham gia vào quá trình dạy học.
- Strong và cộng sự, 2001 đều cho rằng thiết kế chương trình giảng dạy cần tích cực hóa hoạt động học tập của HS và có khả năng liên hệ kiến thức với thực tế cuộc sống của các em.
- Trong một lớp, HS thường có sự khác biệt nhất định “về nền văn hóa, giai cấp, giới tính, trình độ nhận thức, khả năng linh hoạt và phong cách học tập” (Tomlinson và Imbeau, 2010) [7].
- để quá trình dạy học đạt hiệu quả cao hơn và phát huy được tính tích cực học tập của HS, các nhà nghiên cứu đều cho rằng GV phải “tìm ra các giải pháp thiết thực trong hình thức tổ chức và quản lí lớp học để khuyến khích, thúc đẩy tất cả mọi HS học tập tốt hơn” [8]..
- 39 dạy, nội dung dạy học và các yếu tố khác cho phù hợp với nhu cầu HS thay vì trông chờ HS thay đổi cho phù hợp với nội dung dạy học..
- DHPH gắn liền với đảm bảo thực hiện tốt các nguyên tắc giáo dục và nguyên tắc dạy học ở Tiểu học như: Nguyên tắc phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của HS;.
- nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính vừa sức chung và tính vừa sức riêng trong dạy học.
- Khi tiến hành DHPH, ban đầu có vẻ như HS là người điều khiển quá trình dạy học (theo [2.
- Sau khi đánh giá HS, GV xây dựng các bài tập, hoạt động, nội dung dạy học khác nhau tùy theo trình độ nhận thức của HS trong lớp.
- Như Tomlinson (2000) trong [7] đã nêu “những bài học này nên tạo hứng thú học tập và lôi cuốn tất cả HS tham gia tìm hiểu, chiếm lĩnh”.
- DHPH cho phép tạo ra một môi trường mà ở đó HS là trung tâm của quá trình dạy học.
- Môi trường dạy học này sẽ khuyến khích tư duy độc lập và tính tích cực, chủ động ở các em.
- Một điều quan trọng cần ghi nhớ là “bất cứ khi nào có thể, những ý tưởng của HS nên được bổ sung để làm nền tảng cho nội dung học tập” (theo [2.
- HS càng nắm được nhiều tri thức về nội dung học tập thì các em càng có hứng thú nhận thức hơn.
- GV cần đề ra những mục tiêu cụ thể để tạo điều kiện cho HS cùng tham gia hợp tác và học tập nhưng chính HS mới là người thực hiện và phát triển các kết quả học tập này..
- Nói tóm lại, “Dạy học hiệu quả là sự kết hợp linh hoạt, sáng tạo giữa hàng loạt các phương pháp dạy học với những hiểu biết phong phú về cá nhân người học và nhu cầu của các em tại mỗi thời điểm của quá trình dạy học” [3].
- Lớp học phân hóa phải là một tổ chức mà ở đó việc dạy và việc học được tiến hành một cách linh hoạt nhằm đáp ứng nhu cầu của cá nhân HS và giúp các em đạt được kết quả học tập tốt nhất dựa trên khả năng của bản thân..
- Lê Thị Thu Hương (2012), Dạy học phân hóa ở tiểu học nhằm góp phần nâng cao hiệu quả dạy và học môn Toán, Luận án tiến sĩ., Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam.

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt